Kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11:

Chuyện về người thầy giáo anh hùng

Thứ Năm, 27/11/2008, 09:30
Dáng người nhỏ nhắn, đôi bàn tay khòng khèo, đôi mắt lúc nào cũng nặng suy tư, giọng nói thanh nhưng sâu lắng, thu hút người nghe... Đó là nét cảm nhận ban đầu của tôi về ông. Một ngày chớm thu, ở đền Đô (xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh), ngôi đền nổi tiếng thờ 8 vị vua thời Lý, tôi đã được nghe câu chuyện đầy chất huyền thoại về  người thầy giáo đặc biệt ấy: Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động Nguyễn Đức Thìn...

Sinh năm 1940 ở Đình Bảng, một vùng quê có truyền thống yêu nước và hiếu học. Lên 6 tuổi, Nguyễn Đức Thìn được đi học “đồng ấu” (vỡ lòng). Ký ức tuổi thơ của Thìn còn nhớ như in cái ngày 3 tháng 3 (Âm lịch) năm 1947. Khi cả làng chuẩn bị ngày giỗ Vua Lý Thái Tổ thật to, thì giặc Pháp bất ngờ tấn công, giết hại 49 dân thường và 17 du kích.

Theo cha chạy tản cư sang Phù Khê, Thìn được học tiếp tiểu học ở ngay đình làng. Máy bay quân Pháp lại ném bom phá hoại, Thìn lại theo cha chạy tản cư lên Phú Bình (Thái Nguyên), học tiếp ở Trường Hà Châu. Đầu năm 1950, bố Thìn quyết định trở về quê, dù biết phải sống trong kìm kẹp, bởi giặc đã chiếm đóng ở đây từ giữa năm 1949.

Về quê, trường đã không còn, Thìn theo học thầy Đám Chinh. Lớp học không có bàn ghế, không sách giáo khoa, thầy nhớ đến đâu dạy trò đến đó. Lúc này, Thìn là đội viên của Đội thiếu niên du kích bí mật Đình Bảng. Một buổi, khi đang học, thì một tốp lính lê dương ập vào, chúng kéo thầy Chinh ra khảo tra, đánh đập vì nghi thầy là du kích, rồi bắt thầy đi.

Thìn được gửi ra Hà Nội học, cho đến ngày hòa bình lập lại thì lại về học hết tiểu học ở đình làng. Đầu năm 1955, Thìn thi đỗ vào Trường Hàn Thuyên (thị xã Bắc Ninh). Sau biến cố của gia đình, nhất là khi cha mất, Thìn sống cuộc sống vô cùng gian khó.

Vừa học, vừa phải đi làm thuê kiếm sống. Nhưng càng gian khổ, Thìn càng say mê học. Anh nghe như nuốt từng lời thầy cô giảng, dọc đường đi bộ 14 cây số về nhà, Thìn nhẩm lại toàn bộ, rồi tự giảng lại những nội dung đó đến khi thật nhuần nhuyễn mới thôi...

Năm 1958, tròn 18 tuổi, Thìn tốt nghiệp cấp 2. Là học sinh giỏi, có thể học tiếp, nhưng anh đã quyết định trở về làm ruộng. Hôm về xã trình bày nguyện vọng trở thành xã viên, lãnh đạo xã mừng lắm, bảo: “Có anh học cấp 2 về xây dựng hợp tác xã là quý lắm đấy!”.

Làm xã viên hợp tác xã chưa lâu, Thìn bất ngờ được giao nhiệm vụ mới: giáo viên dạy lớp “vỡ lòng”. Nhận công việc dạy học, Thìn hồi hộp lắm, nhưng anh rất quyết tâm. Lớp học phải nhờ trong nhà dân. Thiếu thốn đủ thứ, bàn học không có, phải dựng chiếc cánh cửa xuống làm bàn, làm bảng viết.

Sáng đi làm đồng, chiều đi dạy, nhưng mỗi tuần anh đều dành thời gian đi Hà Nội, vào các trường mầm non để xem và học các cô giáo ở đây múa, hát; xem các loại đồ chơi để về tự làm cho lớp học của mình. Các học trò đều rất quý người thầy tận tụy, đa tài, vừa dạy tốt, vừa hát hay, thổi kèn ácmônica, thổi sáo trúc rất hay. Một năm sau, Thìn lại được cử lên dạy cấp 1 với chức danh: giáo viên dân lập dạy tiểu học...

Vừa dạy học, Thìn tranh thủ thời gian đi học hàm thụ Trung cấp Sư phạm. Tháng 8/1961, học xong, anh có quyết định điều lên dạy cấp 2 và được điều sang Trường THCS xã Tam Sơn. Biết Thìn đã có kinh nghiệm trong việc gây dựng phong trào ở Đình Bảng, nên được nhà trường giao chức Phó bí thư Chi đoàn phụ trách thiếu nhi.

Thìn lại nhớ đến hôm thăm Nhà lưu niệm Ngô Gia Tự, người Cộng sản nổi tiếng, có ngọn đèn dầu đặt trên bàn thờ. Anh nảy ra ý tưởng: phát động phong trào “Thắp sáng ngọn đèn Ngô Gia Tự, để thắp sáng niềm tin tuổi trẻ” nhằm khơi dậy phong trào học tập, noi gương người Cộng sản của quê hương.

Để thể hiện không chỉ bằng hô hào chung chung, mà thầy Thìn đã đi vào việc làm cụ thể. Ngoài giờ lên lớp, anh đã cùng các học trò mò cua, bắt ốc bán lấy tiền xây dựng quỹ hoạt động. Anh khởi xướng phong trào đọc và làm theo gương tốt trên Báo Thiếu niên Tiền phong với câu ca: “Làm nhiều việc tốt bao nhiêu/ Bác Hồ càng quý càng yêu em nhiều”.

Ngày 24/3/1963, sau buổi sinh hoạt với nội dung “Làm nghìn việc tốt để thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy”, thầy và trò cùng nhau đi trồng cây hai bên đường vào Nhà lưu niệm Ngô Gia Tự. Ngày 24/3 hàng năm đã trở thành “Ngày hội nghìn việc tốt” ở Trường Tam Sơn.

Khi biết chuyện này, Bác Hồ đã rất hoan nghênh, và Người đã nêu ra khẩu hiệu: “Làm nghìn việc tốt - chống Mỹ cứu nước”. Một vinh dự thật đặc biệt, đó là ngày mùng Một - Tết Đinh Mùi 1967, Bác Hồ về thăm Trường Tam Sơn, Bác nói: “Các cháu hãy làm nhiều việc tốt hơn nữa, để xứng đáng là cháu ngoan của Bác!”.    

Năm 1978, Thìn bất ngờ phát hiện mình bị bệnh phong (căn bệnh mà mọi người vẫn gọi là bệnh “hủi”). Dù biết là bệnh hiểm nghèo, nhưng không hề nản chí, anh quyết tâm về Bệnh viện phong ở Quỳnh Lập (huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) chữa trị...

Chuyến xe chở Thìn về Quỳnh Lưu hôm ấy vào một ngày giáp tết Nguyên đán. Đêm đó, anh không thể nào chợp mắt. Khi chuẩn bị hành trang lên đường, Thìn đã mang theo nhiều tập giấy viết, chiếc máy ảnh, mấy cuộn phim, thuốc rửa... Những thứ này sẽ giúp cho anh làm việc, dù chỉ là những việc hết sức nhỏ bé, nhưng còn sống, còn phải làm việc, dù khi ấy, bàn tay anh đã dần mất cảm giác...

Sớm tinh mơ, Thìn trở dậy đi ra biển, gặp đám trẻ con đi bắt ngao, khi hỏi chuyện, được biết đó toàn là con em của những người bệnh phong, và tất cả đều chưa được học. Nắm bàn tay nhỏ nhắn, chai sạn của các em, Thìn ứa nuớc mắt và thầm bảo: “Chú sẽ quyết sống và dạy học cho các cháu!”.

Khi gặp Giám đốc Trần Hữu Ngoạn, Thìn không ngần ngại trình bày nguyện vọng được dạy học cho các cháu nhỏ. Ông Ngoạn như bắt được báu vật, nắm chặt tay Thìn: “Tốt quá! Cậu phải giúp chúng tớ việc này”. Rồi khi được Bộ Y tế đồng ý, cho phép thành lập trường mang tên Lê Văn Tám vào tháng 9/1979, Thìn được cử làm Trưởng ban điều hành (Hiệu trưởng).

Những người thầy lâu nay bị “mất quyền lao động”, nay được trở lại với nghề nên say mê lắm... Nơi quê nhà, tin tức gửi về qua những bức ảnh và câu chuyện của Thìn đã khiến cho gia đình và các thầy và trò trường cũ vô cùng cảm phục người thầy giáo tài năng, tâm huyết. Và họ mong ngóng ngày Thìn trở về...

Vì thế, sau tròn 4 năm, dù rất muốn gắn bó với nơi đã có những năm tháng chống chọi với bệnh tật để cống hiến với nghề, biết bao kỷ niệm, song Thìn phải trở về trường cũ dù đôi bàn tay đã vĩnh viễn tật nguyền. Và tiếp tục công tác cho đến năm 1992 thì thầy giáo Nguyễn Đức Thìn nhận quyết định nghỉ hưu...

Có người thắc mắc: “Người khỏe còn chưa sáng tạo được, tàn tật lấy đâu sức mà còn sáng tạo?”, thầy Nguyễn Đức Thìn đã chứng minh bằng thực tế, đó là kể từ khi đó với đôi tay tật nguyền, ông có thêm hàng chục đề tài sáng tạo, để nhận thêm 3 tấm bằng “Lao động sáng tạo” nữa đấy thôi...

68 tuổi đời, 36 năm tuổi nghề, ông đã dành trọn những danh hiệu cao quý nhất của người thầy giáo: Anh hùng Lao động và Nhà giáo Nhân dân. Giờ đây, cuộc sống của ông vẫn không ngừng nghỉ. Công việc chính hàng ngày là cùng chiếc xe đạp cà tàng ra đền Đô, ở đây, ông vừa là thành viên Ban Quản lý di tích, vừa là hướng dẫn viên, vừa nghiên cứu lịch sử triều Lý, vừa viết báo, chụp ảnh...

Ngồi bên bậc thềm ở đền Đô, tiếng lá reo đùa trong sắc nắng thu vàng rực, người thầy giáo già nhìn về xa xăm khi nhớ về bao kỷ niệm của cuộc đời dạy học. Lúc chia tay, tôi xúc động nắm đôi bàn tay tật nguyền của người thầy giáo Anh hùng, lòng thầm mong thầy luôn khỏe mãi để tiếp tục mang sức sáng tạo kỳ diệu cống hiến cho đời...

Bài, ảnh: Minh Quang
.
.
.