Câu chuyện thật của "Người tình báo thầm lặng"

Thứ Ba, 28/02/2017, 16:45
Cuốn sách "Người tình báo thầm lặng" đã hé lộ nhiều chiến công bí mật của lực lượng tình báo trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và chân dung cuộc đời của nhà tình báo Tống Văn Trinh.

"Người tình báo thầm lặng" là tiêu đề quyển truyện ký viết về cuộc đời nhà tình báo Tống Văn Trinh có mã danh N113 (nhà xuất bản Văn Nghệ) do công ty Fahasa phát hành. Tác giả quyển sách là Thạc sỹ toán học Tống Quang Anh - con trai của nhà tình báo Tống Văn Trinh. Quyển sách đã hé lộ nhiều chiến công bí mật của lực lượng tình báo trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và chân dung cuộc đời của nhà tình báo Tống Văn Trinh.

Vỏ bọc hoàn hảo

Năm 1954, một cán bộ quân báo ở Cần Thơ tên là Tống Văn Trinh được tập kết ra Bắc và phiên vào biên chế Sư đoàn 330 làm cán bộ trợ lý Ban Quân lực.

Một ngày đầu năm 1957,  ông nhận được lệnh điều động về Cục Tình báo, thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sau một khóa huấn luyện đặc biệt và bí mật, Tống Văn Trinh được Cục Tình báo đưa sang Lào bằng đường hợp pháp trong vỏ bọc một doanh nhân Việt kiều Thái Lan vào đầu năm 1959.

Với cái tên mới là Nguyễn Văn Độ, mật danh N113, ông bắt liên lạc và cư trú tại nhà một thầu khoán tên Bùi ở đường Nong Bone gần That Phoune.  Ông Bùi là thầu khoán của hãng xây dựng Calavy, Lào. 

Tác giả Tống Quang Anh, con trai nhà tình báo Tống Văn Trinh tại buổi giới thiệu sách "Nhà tình báo thầm lặng".

Trước đó có một người tên Nguyễn Văn Đan ở Sài Gòn qua làm thư ký cho Hãng Calavy. Do không chịu đựng cảnh xa nhà, ông ta đã về nước. Khi về, ông ta bỏ lại giấy phép cư trú. Ông Bùi dùng mối quan hệ thân thiết của mình nhờ một người làm việc trong ngành cảnh sát thay ảnh ông "Độ" vào bộ hồ sơ cư trú của ông Đan.

Sau 2 lần lột xác, Tống Văn Trinh trở thành Nguyễn Văn Đan, thư ký cho Hãng Calavy, Lào. Sau đó "Nguyễn Văn Đan" được ông Bùi giới thiệu vào làm thư ký cho cơ quan Đăng kiểm xe (Bureau Contrôle d'Auto) thuộc Sở Công chánh Vientiane - Ngạch công chức chính thức của Vương quốc Lào.

Sau một thời gian ngắn, "Nguyễn Văn Đan" chiếm được cảm tình tất cả đồng nghiệp. Năm 1960, "Trung tâm" thu xếp đưa vợ con ông "Đan" từ Việt Nam qua sống chung.

Suốt 5 năm đầu, "Nguyễn Văn Đan" chỉ làm mỗi nhiệm vụ là tạo thiện cảm, xây dựng các mối quan hệ thân tình với các gia đình có con em làm việc trong Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa (VNCH) tại Lào và chính quyền VNCH.

Năm 1964, Cục Tình báo gởi sang một điệp viên phụ trách điện đài tên T.. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, vì ông "Đan" không chỉ lo giấy phép cư trú, mà còn phải tạo nghề nghiệp bình phong cho người phụ trách điện đài và đặc biệt là nơi đặt điện đài, bảo đảm hoạt động an toàn. Để tạo thế hợp pháp cho người phụ trách điện đài, ông "Đan" vận động bà con Việt kiều góp tiền xây dựng một ngôi trường tư thục mang tên La Fontaine dạy chương trình phổ thông Lào nhưng có kèm thêm tiếng Việt. Điệp viên T. sang với vỏ bọc là thầy giáo dạy tiếng Lào.

Nhà tình báo Tống Văn Trinh.

Năm 1970, ông "Đan" tiếp tục "lót ổ" cho điệp viên Q vào vỏ bọc tổng giám thị của trường La Fontaine. Năm 1963, nhận thấy Công ty cổ phần Hàng không nội địa Vương quốc Lào - Societé Véha Akat (SVA) có nhiều cổ phần của các quan chức lớn và nơi đó có nhiều thông tin về chính trị quân sự bởi vì ông Oun Sanani Kone - Cố vấn Quốc phòng của chính phủ Lào - là chủ tịch Hội đồng quản trị của SVA.

Ông "Đan" tìm cách xin vào làm kế toán trưởng của VSA. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông "Đan" được Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đặc biệt ưu ái, xem như người nhà.

Chính mối quan hệ thân thiện với Chủ tịch Hội đồng quản trị Oun Sanani Kone đã tạo điều kiện cho ông Đan nắm bắt được những thông tin tối mật chính phủ Lào, kể cả tình hình chính trị của Việt Nam Cộng hòa.

Thời gian này, mọi tình hình của chính quyền Lào thân Mỹ và VNCH tại Lào đều được báo cáo đầy đủ về "Trung tâm".

Đầu năm 1971, ông "Đan" nhận thấy có điều gì đó bất thường khi một phái đoàn quân sự cao cấp của Mỹ và VNCH bất ngờ xuất hiện tại Lào. Qua dòng họ nhà Sanani Kone, ông phát hiện Mỹ và VNCH thỏa thuận với chính quyền Lào thân Mỹ thực hiện một kế hoạch quân sự lớn tại khu vực Hạ Lào. Ngay lập tức, ông và cộng sự báo cáo ngay về "Trung tâm".

Cùng thời điểm đó, một cán bộ tình báo của ta đang trú ẩn trong bộ máy cao cấp của chính quyền VNCH cũng báo cáo về Hà Nội: "Mỹ và VNCH sắp thực hiện một chiến dịch quân sự lớn tại Hạ Lào nhằm cắt đứt đường Trường Sơn". "Trung tâm" chỉ thị cho ông "Đan" tìm cách thu thập thông tin chi tiết về kế hoạch này tại Lào.

Chiến dịch Lam Sơn 719

Năm 1971, chuẩn bị thực hiện "Chiến dịch Lam Sơn 719", Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã đưa một đoàn sĩ quan quân sự sang tại Vientian. Trong số đó có  viên trung tá tên B. Biết ông "Đan" là người thân tín của nhà Sanani Kone, Trung tá B nhờ ông "Đan" tạo điều kiện để kết thân.

Tại bữa tiệc chiêu đãi kết thân giữa viên Trung tá B và Sanani Kone, ông "Đan" vờ say rượu để có cớ vào phòng làm việc của trung tá B ngủ. Trong khi trung tá B còn mê mải cụng ly với vị lãnh đạo quốc phòng Lào, ông "Đan" đàng hoàng dùng máy ảnh chuyên biệt chụp lại trọn bộ 2 bản kế hoạch "Chiến dịch Dewey Canyon II" của Mỹ và "Chiến dịch Lam Sơn 719" của VNCH.

Bìa sách "Nhà tình báo thầm lặng".

Ngày hôm sau, toàn bộ chi tiết 2 kế hoạch quân sự "khủng" đó nằm gọn trên bàn làm việc của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương của ta. Căn cứ vào kế hoạch của địch, các vị lãnh đạo Bộ Quốc phòng soạn thảo kế hoạch đón lõng phản công mang tên "Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào". Ông Lê Trọng Tấn - Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam được giao làm Tư lệnh và ông Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy chiến dịch.

Khi địch bắt đầu di binh thực hiện chiến dịch, quân ta cũng bắt đầu động binh khởi động kế hoạch đón lõng vào ngày 30-1-1971.

Nhất cử nhất động của địch, quân ta đều nắm trong lòng bàn tay. Các sư đoàn 308, 304, 324, Sư đoàn 2 và lực lượng tại chỗ của các mặt trận B4, B5, 559 cùng một số lực lượng của Quân Giải phóng nhân dân Lào (Gồm 4 trung đoàn pháo, 3 trung đoàn cao xạ phòng không, 3 trung đoàn công binh, 4 tiểu đoàn thiết giáp), liên quân Lào - Việt kề vai sát cánh đã làm chủ hoàn toàn chiến trường. Hầu như mọi cánh quân của địch đều lọt vào mạng lưới giăng sẵn của quân ta.

Trận giao chiến vùng Hạ Lào này được tờ Paris Match (Pháp) viết: "Mục tiêu của cuộc hành quân này là tạo lập một hành lang dài 24 km dọc theo Đường 9 đến Sê Pôn, sâu vào đất Lào 35 km đến tận con đường nhánh có ý nghĩa chiến lược của đường mòn Hồ Chí Minh. Giai đoạn 3 của chiến dịch phải là một cuộc hành quân càn quét dài ngày nhưng do bị thiệt hại nặng, tướng Lãm (quân đội VNCH) phải ra lệnh rút quân sớm kể từ ngày 10-3-1971.

Quân đội VNCH chỉ có thể rút quân bằng không lực Mỹ, đường bộ đã bị Bắc Việt chặn toàn bộ. Toàn bộ chiến dịch bị kết thúc sớm vào ngày 24-3-1971. Thiệt hại của quân đội VNCH ước tính lên đến 10.000 người, gần một nửa số quân tham chiến ở Lào. Mỹ chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ nhưng cũng thiệt hại 107 chiếc trực thăng và 176 phi hành đoàn". Hơn 1.000 quân, trong đó có đại tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy dù VNCH - đầu hàng và bị quân ta bắt sống.

Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào của quân dân hai nước Việt - Lào đã kết thúc thắng lợi hoàn toàn.

Chiến dịch Kou Keo

Ngày 25-5-1972, với sự hậu thuẫn của quân đội Mỹ, lực lượng quân đội Lào thân Mỹ bất ngờ đổ quân xuống Cánh đồng Chum thực hiện một kế hoạch quân sự mang tên "Chiến dịch hành quân Kou Keo". Đó là phần mở đầu của chiến dịch mang tên "phục thù" của lực lượng liên quân Mỹ - Lào - Thái.

Ông Tống văn Trinh và vợ (đứng giữa) trong thời gian hoạt động ở Lào.

Trưa hôm đó, vừa từ hãng hàng không về đến nhà, ông "Đan" nhận được tin mật từ quê nhà gửi sang yêu cầu báo cáo thông tin về kế hoạch quân sự của địch ở Cánh đồng Chum. "Trung tâm" yêu cầu phải báo cáo trước 24 giờ đêm. Có nghĩa là ông "Đan" chỉ có 12 giờ để thực hiện một nhiệm vụ gần như bất khả thi.

Ông đành dùng tư cách "người nhà" của dòng họ nhà Sanani Kone đi tìm gặp ngay viên sĩ quan tham mưu ở Bộ Quốc phòng. Đó là cách thu thập thông tin rất nguy hiểm, dễ lộ vỏ bọc điệp viên nhưng ông không còn cách nào khác.

Ông bày một cuộc nhậu rồi khéo léo hỏi thăm tình hình chiến sự. Vô tình, viên sĩ quan này phun hết mọi kế hoạch của chiến dịch hành quân Kou Keo. Từ cuộc nhậu với viên sĩ quan cao cấp, ông "Đan" ghi nhận: "Lực lượng quân đội Lào thân Mỹ được huy động gồm Trung đoàn Cơ động số 5 ở Chinaimo, một binh đoàn của quân Hạ Lào - Savannakhét, 2 tiểu đoàn lính Mèo ở Sảm Thông, Long Chẹng của tướng phỉ Vàng Pao.

Mục tiêu cuộc hành quân không nhằm chiếm đóng mà tập trung đánh phá cơ sở hậu cần và làm tiêu hao dẫn đến tiêu diệt lực lượng Pathét Lào. Theo kế hoạch, sau 3 ngày càn quét và oanh kích bằng không quân, liên quân Lào thân Mỹ sẽ rút quân theo hai con đường, Phone Hông và bản Ban Paksane. Chiến dịch Kou Keo chỉ là đòn đánh nhử quân cách mạng Pathét.

Ngay đêm đó, "Trung tâm" nhận được bản báo cáo của ông Đan. Từ báo cáo của ông, quân cách mạng Pathet Lào không rơi vào cái bẫy "Giương đông kích tây" của địch.

Thực tế cho thấy, vào ngày 21-5-1972, quân Mỹ tập trung không quân đánh phá ác liệt các điểm cao trọng yếu và trục đường giao thông để mở đường cho bộ binh tấn công bằng 3 mũi vào các điểm cao ở Thẩm Lửng ngày 25-5-1972. Đoán được kế hoạch của địch, quân Pathét Lào đón lõng và đánh tan 6 tiểu đoàn  (có 2 tiểu đoàn Thái Lan) ở Hin Đăm, Thẩm Lửng, đẩy lui nhiều đợt tiến công của địch ở Mường Sủi, đồng thời dùng đặc công, pháo binh tập kích địch ở Long Chẹng.

Đúng như báo cáo, vào ngày 11-8-1972, địch chuyển hướng tấn công toàn lực vào Cánh đồng Chum từ hướng khác:  4 tiểu đoàn Thái Lan tiến vào đường bộ theo 3 hướng đông nam, tây và đông bắc. Mặt khác 2 tiểu đoàn Thái Lan đổ bộ đường không xuống Phu Keng đánh hướng tây bắc. Quân Pathét Lào tập trung lực lượng đã phục kích sẵn ở Phu Luông, Phu Huasang, Phu Thông, đồi 5 mỏm, điểm cao 1294, bản Lao, Phu Học chờ địch chui vào rọ để phản đột kích. Kết quả, địch bị diệt và bị bắt sống hơn 700 tên. Quân Pathét Lào giữ được trận địa.

Nhờ nguồn tin tình báo của ông "Đan", quân Pathét Lào đã giáng cho liên quân Mỹ - Lào ngụy một trận đòn choáng váng".

Luật sư danh dự

Sau ngày đất nước thống nhất 30-4-1975, đang là kế toán trưởng hãng hàng không có thu nhập của giới thượng lưu, ông chấp nhận bỏ tất cả để được về quê mẹ.  Được "Trung tâm" chấp nhận cho hồi hương, ông Tống Văn Trinh về Việt Nam, xin chuyển ngành về tỉnh Cửu Long (giờ là Vĩnh Long) làm Viện phó Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh.

Năm 1977, do nhu cầu nhân sự, ông Tống Văn Trinh được điều chuyển sang tỉnh Hậu Giang giữ chức Trưởng ban Pháp chế. Sau khi Ban Pháp chế chuyển thành Sở Tư pháp, ông được cử làm Giám đốc. Ông là người có công xây dựng và củng cố bộ máy tư pháp toàn tỉnh Cần Thơ (hiện giờ là TP Cần Thơ), trong đó có việc thành lập các phòng công chứng.

Bộ Tư pháp dựa vào thành tích đóng góp, đặc cách công nhận ông là luật sư và là thành viên của Hội Luật gia Việt Nam. Dù ông chưa từng tốt nghiệp Đại học Luật.

Đến cuối năm 1986, cơn tai biến mạch máu não lần hai đã quật ông ngã gục nhưng  nhờ được cứu chữa kịp thời ông đã qua khỏi. Ông xin nghỉ hưu.

Ngày 19-8-2008, đúng vào ngày kỷ niệm 63 năm tham gia cách mạng, ông về cõi vĩnh hằng ở tuổi 86.

Nông Huyền Sơn
.
.
.