Lời sám hối... muộn
Bóng đen cuống cuồng vơ quần áo lao vút ra khỏi cửa. Hải ngồi lặng như pho tượng nước mắt tuôn rơi lã chã. Oán ai đây? Trách ai đây? Còn mặt mũi nào để gặp lại người yêu. Mấy ngày liền Hải nằm liệt trên gường, không ăn, không uống; nhiều lúc Hải muốn chết quách cho thoát khỏi sự khổ đau, dằn vặt. Thủy biết tội mình nên đến quỳ bên giường năn nỉ xin tha tội và tự thú: “Vì quá yêu nên không dằn lòng được, dù sao cũng lỡ rồi xin Hải chấp nhận tổ chức cưới”.
Bà giáo Hải đang khỏe mạnh bỗng nhiên lăn ra ốm vì bị bệnh ung thư gan giai đoạn cuối, bệnh viện trả về nhà làm nhiều người sửng sốt. Một cô giáo mẫu mực, từng góp phần đào tạo hàng chục ngàn học sinh thành đạt, được phụ huynh kính trọng, học trò tin yêu trong suốt hơn ba mươi năm qua ở mảnh đất nghèo khó, thiên nhiên khắc nghiệt, nay bị bệnh hiểm nghèo.
Tin dữ loan đi, học trò cũ từ khắp nơi đổ về thăm và chăm sóc cô, trong số đó có cả những vị Thứ trưởng, Cục trưởng, Giáo sư, Tiến sĩ... đầu chỉ còn lưa thưa vài sợi tóc ngả màu. Gần hai tháng nằm viện, tất cả các bác sĩ chuyên ngành giỏi nhất, các loại thuốc quý nhất con người có thể tìm ra chữa bệnh được đám học trò cũ đưa đến; nhưng bệnh của bà giáo ngành y học thế giới bó tay, nên đành...
Trời chuyển dần về sáng, tiếng sấm đì đùng từ xa vọng về báo hiệu cơn mưa đầu mùa sắp tới. Trời Tây Nguyên vừa mới trong xanh điểm xuyết bằng hàng triệu ngôi sao rực rỡ, lung linh, bỗng tối sầm lại; gió, chớp rạch ngang bầu trời trước khi buông tiếng sét gào thét dội xuống. Có lẽ tiếng nức nở của đất trời làm cho bà giáo tỉnh lại từ từ mở mắt nhìn hai người con ngồi hai bên; Cô chị hiện đang giảng dạy tại một trường đại học ở Thủ đô; Cô em sinh viên năm cuối đại học trong thành phố, xin nghỉ về chăm sóc mẹ.
Người đàn ông gầy yếu, ngồi thu lu cuối gường, mái tóc ngã sương, giương mắt trắng dã nhìn chăm chăm vào mặt người bệnh, khẽ hỏi:
- Bà tỉnh lại rồi à, có muốn ăn chút gì không?
- Mẹ!
Hai người con thổn thức gọi, mặt người bệnh bừng sáng, nở nụ cười:
- Các con không được buồn, đã là quy luật của tạo hóa, làm sao cưỡng lại được. Mẹ chỉ muốn một điều, hai con giúp được không?
- Dạ!
- Trước đây khi còn sống với ông bà ngoại, do điều kiện kinh tế khó khăn phải ăn khoai, ăn rau trừ bữa. Ông ngoại ngày đêm theo bạn lênh đênh trên biển đánh cá, ba bốn ngày mới về một lần, thu nhập chẳng được bao nhiêu. Bà ngoại đầu tắt mặt tối từ bình minh đến nhọ mặt người mới từ động cát trở về. Tuy vất vả vậy, ông bà vẫn khuyên chín người con cố công đèn sách may ra kiếm được cơm gạo nhà nước, thoát khỏi vùng đất nghèo khó này. Mẹ là con thứ bảy, chưa phải là con út nhưng được ông bà cưng chiều nhất. Hôm nào nhà mua được trứng chắc chắn sẽ làm món luộc dầm nước mắm, bóc lòng trắng dành riêng cho mẹ. Đó là món ăn mẹ thích nhất. Gần ba chục năm lấy chồng, mẹ không một lần được ăn món đó nữa.
- Bà.
Người đàn ông ngồi cuối giường nghẹn ngào thốt lên:
- Tôi có lỗi với bà quá. Hồi nhỏ ở với thầy u hàng ngày vẫn ăn trứng vịt luộc chấm nước mắm cáy, nhưng không bao giờ tôi đụng tới lòng trắng vì nó có mùi thum thủm. Còn từ khi lấy được bà, tôi cứ tưởng bà cũng có ý thích như tôi; vì thế phải nhường lòng đỏ cho bà. Nào ngờ…
Những giọt nước mắt long lanh dưới ánh sáng điện, lăn trên gương mặt nhăn nheo trước khi rơi xuống nệm làm ai nhìn thấy cũng phải não lòng. Năm tháng trôi qua tuổi tác đặt gánh nặng đè lên đôi vai gầy và không quên đánh dấu thời gian lên gương mặt lưỡi cày của người đàn ông.
- Bà còn hận tôi không?
- Có điều này phải nói cho mọi người biết trước lúc ra đi để lòng được thanh thản!
Ngừng một chút lấy hơi bà nói tiếp:
- Hân, con mang chiếc rương gỗ trên tủ lại đây.
Ông Thủy và hai người con đều biết suốt mấy chục năm nay bà Hải giữ gìn chiếc rương gỗ như một báu vật, cấm mọi người đụng tới. Không ai được biết trong đó cất giấu cái gì. Có lần vợ đi tham quan do nhà trường tổ chức, ông thuê thợ về mở khóa ra xem, chỉ thấy đúng hai chục cuốn sổ bìa đen được đóng cẩn thận. Tò mò giở ra nhưng không đọc được một chữ nào vì chỉ là những dòng chữ của nước nào đó, lạ hoắc. Giờ đây, bà đòi mang hòm gỗ ấy lại, mở ra để nhìn, có thể đó là dấu hiệu... Ông Thủy rùng mình, vội vàng sờ vào bàn chân bà, hốt hoảng kêu lên:
- Chân lạnh rồi!
- Không sao đâu, đôi chân giờ mới lạnh chứ ngực tôi bị đóng băng hai mươi bảy năm chín tháng mười ba ngày rồi, ông có biết không?
- Bà!
Ông Thủy run rẩy đáp.
- Ông còn nhớ không?
Ngừng một chút bà nói tiếp:
- Năm ấy tôi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm, được phân công về dạy tại trường mới được thành lập theo chính sách di dân xây dựng kinh tế của nhà nước; trường chỉ có năm phòng học tạm bợ lợp gianh, vách nứa. Còn khu nội trú giáo viên hai gian, mái gianh, vách đất. Cuộc sống vật chất lúc đó khó khăn, gian khổ vô cùng; song hơn chục thầy cô giáo trẻ vẫn vô tư, vừa dạy vừa hăng hái tham gia các hoạt động xã hội. Tôi, trên cương vị Bí thư chi đoàn, lại mang sẵn trong người hơi thở của biển nên tính cách bạo dạn như đàn ông. Có hôm trời nổi giông, gió xoáy vật ngược mái gianh, mấy thầy cô giáo sợ mất vía, bỏ chạy toán loạn; tôi bắc thang leo lên nóc nhà hò hét mọi người lên buộc lại.
- Đúng thế, cũng vì chuyện đó nên đám thanh niên trong vùng thách nhau tán bà; giải thưởng sẽ là một chầu nhậu thịt chó đã đời và tôi là người thắng cuộc.
Ông Thủy tiếp lời. Kỷ niệm ùa về, bà nhớ lại một buổi chiều tháng sáu sau cơn dông, vách đất khu nhà ở giáo viên sụp đổ; đồng nghiệp người nghỉ hè, người đi học, chỉ còn một mình bà ở lại trong trường đợi người yêu đến đón, không ngờ trời nổi cơn thịnh nộ thử thách lòng người. Một mình giữa đống đổ nát, tan hoang chẳng biết xoay xở thế nào; may sao Thủy đến, không nói năng gì, xắn tay áo lao vào dọn dẹp.
Chàng trai xứ “quan họ” vác cưa, đục đi làm thuê kiếm sống, phiêu bạt tứ xứ; gần năm nay đến làm nhà, đóng bàn ghế cho mấy hộ dân gần trường, thỉnh thoảng chạy sang khu tập thể giáo viên rủ đánh cờ. Tuy văn hóa chưa qua cấp hai, ít nói, nhưng khéo tay hay làm; nhìn thấy bàn ghế hỏng tự giác mang cưa, đục sang loay hoay sửa dùm. Có lẽ thấy Thủy nhiệt tình, vô tư nên Hải xem Thủy như một người bạn. Nhờ sự giúp đỡ của Thủy, khu nhà ở giáo viên tạm ổn, mấy bức vách sụp đổ được thay bằng cỏ gianh nẹp lại.
Trời đổ mưa mãi không ngớt, Hải mời Thủy ở lại ăn cơm tối, nhằm trả công buổi chiều giúp đỡ sửa nhà. Bên ngọn đèn dầu leo lét, chập chờn trước gió, Thủy xách can rượu qua góp vui. Hải rót rượu ra ly, nói:
- Cảm ơn bạn đã giúp đỡ.
- Nghe nói con gái miền biển uống rượu như uống nước giếng, hôm nay ta thi, ai thua phải rửa bát.
- Đồng ý.
- Dô!
Trên mâm cơm ngoài đĩa trứng luộc còn có mấy hạt lạc rang, đĩa ngọn lang luộc; họ chúc nhau uống, mặc gió mưa giãy giụa quanh nhà.
Hải uống vì buồn; người yêu hẹn cắt phép đến đưa nhau về quê tổ chức đám cưới mà mãi không thấy. Tuy biết lính biên thùy gian nan, vất vã giữ gìn biên cương Tổ quốc, khó đúng hẹn. Song thời gian gần đây, Hải thấy người mình khang khác, có lẽ đó là kết quả của lần lên thăm người yêu tháng trước định ngày cưới.
Can rượu năm lít cạn hơn nửa, Hải vịn bàn đứng lên:
- Th…u…y thua rồi nhé. Đi rửa bát cho chị!
Hải đứng lên định bước ra cửa, chới với muốn ngã. Thủy chạy vội lại đỡ, dìu Hải đặt lên giường.
- Th… ằng e…m ng… o... an!
Hải thiếp đi, mồm vẫn lẩm bẩm thêm những câu gì không rõ. Bên ngoài, trời tối đen như mực, chỉ có tiếng gió gầm gừ, lồng lộn đuổi nhau chạy qua mái gianh. Tiếng cú mèo đậu trên cây knia trong sân trường khắc khoải đếm từng tiếng: cú, cú, cú…
*
Hải giật mình tỉnh giấc khi nghe tiếng thở nặng nề bên tai, phả hơi rượu vào mặt, một bàn tay thô ráp sáp trên ngực; cô hoảng hốt hất tay vùng dậy.
- Trời!
Hải sửng sốt thét lên khi nhận ra quần của mình bị kéo tụt xuống đầu gối từ bao giờ, người bên cạnh ngồi dậy lắp bắp nói.
- H… ải! anh yêu…
- Bốp!
Lấy hết sức bình sinh Hải chồm lên, giang tay vả vào nơi vừa phát ra tiếng nói, gầm lên.
- Khốn nạn, cút, cút ngay.
Bóng đen cuống cuồng vơ quần áo lao vút ra khỏi cửa. Hải ngồi lặng như pho tượng nước mắt tuôn rơi lã chã. Oán ai đây? Trách ai đây? Còn mặt mũi nào để gặp lại người yêu. Mấy ngày liền Hải nằm liệt trên gường, không ăn, không uống; nhiều lúc Hải muốn chết quách cho thoát khỏi sự khổ đau, dằn vặt. Thủy biết tội mình nên đến quỳ bên giường năn nỉ xin tha tội và tự thú: “Vì quá yêu nên không dằn lòng được, dù sao cũng lỡ rồi xin Hải chấp nhận tổ chức cưới”.
Cưới ai đây? Cưới người mình yêu thì làm sao có thể sống được trong suốt cả cuộc đời mà lương tâm luôn luôn bị dằn vặt, cắn xé vì đã ngoại tình. Còn không cưới, ăn nói ra sao với mọi người về đứa con trong bụng!
Còn cưới hắn, kẻ như con thú phá hỏng cuộc đời cô, đẩy cô vào ngõ cụt không lối thoát. Hắn bảo vì tình yêu, nhưng làm sao chấp nhận được thứ tình yêu ăn cướp ấy. Chấp nhận lấy hắn ư? Lấy hắn là chấp nhận sống với người không hề yêu, vậy có khác gì đã chết. Nhưng người chết không bao giờ còn đau khổ, dằn vặt; còn sống về thể xác mà chết về tâm hồn thì sẽ ra sao đây?
Ba ngày sau Hải đột ngột ngồi dậy đồng ý cưới; cưới ngay không phải xin ý kiến gia đình ngoài quê mà chỉ lên báo cho anh trai, đang công tác trên tỉnh. Ông anh trai chết lặng khi nghe cô em gái cưng thông báo cưới chồng; một thanh niên mới gặp lần đầu; mặt lưỡi cày, có cặp mắt trắng dã, núp trong hai hố mắt sâu hoắm, còn cặp môi đen sì như da trâu; tướng của kẻ tàn nhẫn. Biết tính em gái, anh trai chỉ thở dài.
Đám cưới hai người được tổ chức ngay tại trường có bạn bè, đồng nghiệp đến chức mừng cô giáo trẻ lấy được ông chồng thợ mộc. Chẳng biết đám cưới vui đến mức nào mà ông anh tặng ngay cho chú rể hai cái bạt tai tại hôn trường; nếu không có người can chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Sau đám cưới Hải hoàn toàn thay đổi: ít nói, ít cười, trở nên trầm lặng và luôn có mặt đủ tám tiếng ở trường. Không có giờ thì tổ chức dạy bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu, thăm hỏi học sinh ốm đau… Mọi người thấy cô giáo từ sáng sớm đến tối mịt loay hoay với mọi phong trào nhà trường thì xì xầm, buông lời dèm pha: nào chơi trội, nào là muốn mình nỗi bật hơn người khác để được đề bạt; song cũng có người khen: “dạy giỏi lại có cái tâm của nhà giáo!".
Hải nghe tất cả nhưng không có phản ứng gì. Việc mình mình làm, mặc kệ thiên hạ nói gì thì nói. Nào ai biết được cô làm tất cả những điều ấy chỉ vì không muốn trở về nhà đối diện với chồng.
Năm tháng trôi qua, Hải đã có một bé gái bụ bẫm, khỏe mạnh, đôi má bánh đúc, cặp mắt tròn xoe lúc nào cũng như cười. Giờ đây cô con gái bé nhỏ và đám học trò là niềm vui lớn nhất, hạnh phúc duy nhất của cô giáo trẻ. Ở bên con, giọt máu Hải đánh cắp của người yêu mang về chung sống với gã thợ mộc: kẻ đã đánh cắp thể xác cô bằng thủ đoạn bỏ tàn thuốc lá vào rượu -sau này Thủy tự thú như thế; và chính hắn vui mừng chào đón đứa con sinh ra sau chưa tròn bảy tháng tính từ cái đêm khốn nạn đó. Hải sống như chết, phó mặc tất cả, ngay những lúc Thủy mò vào thực hiện vai trò người chồng của mình như ông thợ mộc đục gỗ khoán cũng vô cảm. Làm xong việc của giống đực, Thủy lăn ra ngủ như chết. Còn Hải, mỗi lần như vậy cô nghiến răng, gồng mình lên, phó mặc cho Thủy dày vò, chấp nhận sự hãm hiếp của chồng.
Cuộc sống sẽ cứ như vậy trôi đi, chẳng có gì đáng nói nếu như không có sự xuất hiện của “người ấy” làm xáo trộn tâm hồn Hải. Từ khi còn là sinh viên Hải đã được đọc báo, nghe đài nói về anh: một con người mưu trí, dũng cảm và cô từng ao ước một lần gặp mặt. Số phận xô đẩy, anh về công tác tại xã và hay đến trường trao đổi công việc. Người đàn ông to khỏe, có đôi mắt tinh nhanh, giọng nói ấm áp làm người nghe cứ dựng tai lên như bị bùa. Tuy nước da hơi ngăm ngăm song anh vẫn là mẫu người lí tưởng để các cô gái mơ ước. Còn cô Chủ tịch công đoàn trường sau năm năm cưới chồng, nuôi con vốn héo hắt u buồn bỗng nhiên thay đổi như uống được liều thuốc thần, xinh hẳn ra; đúng là “gái một con…”. Vì công việc “người ấy” và cô hay đi cùng nhau; họ trở thành đôi bạn thân từ lúc nào không rõ.
Trước đây, có việc đi đám ma hay cưới hỏi, giỗ tết, người ta thường thấy Hải điều khiển chiếc cúp 50cc, đèo thêm đức ông chồng ôm con ngồi sau, mặt vênh vênh như chiếc bánh đa nướng ra chiều mãn nguyện. Thủy không tự hào sao được khi có cô vợ trí thức được những người xung quanh quý trọng.
Hôm đám cưới con gái già làng buôn Um, Hải và “người ấy” vượt gần bốn chục kilômét đường rừng vào dự. Mải vui đến lúc mặt trời gác núi mới vội vã ra về. Trời mưa sụt sùi, gió thỉnh thoảng ào qua kéo theo tiếng reo của cây lá bên đường. Con suối buổi sáng chắn ngang đường đi, nước róc rách len qua kẻ đá; giờ đây bỗng gầm gào, ào ào xối nước như thác đổ. Chiếc xe môtô phân khối lớn không thể băng qua; hai người đành lên hòn đá bên bờ ngồi chờ nước rút.
Sau cơn mưa, trời xanh thẳm; hàng vạn ngôi sao li ti như những hạt ngọc long lanh ai đó thả lên trời. Xa xa vầng trăng rời đỉnh núi ghé mắt nhìn xuống trần gian. Trên hòn đá to như chiếc chiếu đôi, hai người ngồi bên nhau kể cho nhau nghe về cuộc đời, sự nghiệp, sự bất hạnh của cuộc sống hôn nhân, không tình yêu; về quyết định sai lầm làm hỏng cả cuộc đời. Hai con người, làm hai công việc khác nhau, nhưng cùng cảnh ngộ. Họ gặp nhau, muộn, nhưng còn hơn không. Hai nửa thiếu mà cả hai mất công tìm kiếm bấy lâu, bây giờ mới thấy. Họ gặp nhau, thuộc về nhau như duyên kiếp tiền định.
… Trăng buông những tia sáng run rẩy lên mặt suối đang xô nhau chạy. Những cơn gió thổi nhẹ qua mơn man trên từng tàu lá đang giãy lên hứng những giọt trăng rơi. Thời gian như ngừng lại trước trận cuồng phong của ái tình. Xa xa tiếng gà rừng cất tiếng gọi bình minh, đêm chuyển dần về sáng. Dòng suối gầm gào lúc buổi tối không biết vô tình hay cố ý đẩy họ vào với nhau, giờ đây trở nên hiền hòa, cất tiếng ca muôn thuở: róc rách, róc rách.
Sau đêm đó, tính tình của Hải hình như đổi khác, mỗi khi về đến nhà cô rất sợ phải nhìn vào khuôn mặt chồng vì cảm thấy có cái gì đó rờn rợn. Tội nghiệp cô con gái nhỏ trở thành lá chắn bất đắc dĩ tránh cho mẹ thoát khỏi phải chung chăn gối với chồng.
Nhưng cái kim để trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, Thủy đi hỏi và biết được Hải đi đám cưới về từ chiều mà sáng hôm sau mới tới nhà; tính tình thay đổi. Hải không thể trả lời được mình đã ở đâu cái đêm ấy. Đòn ghen trút lên đầu cô một cách tàn nhẫn. Kẻ vô học khi đã ghen thì chỉ biết dùng sức mạnh của cơ bắp hành hạ xuống người từng chung chăn gối với mình không thương tiếc. Hải xin ly hôn, Thủy hỏi:
- Tại sao phải ly hôn?
- Chúng ta chưa bao giờ yêu nhau cả, quả thật trái tim tôi đã thuộc về anh ấy.
- Yêu! Yêu là cái gì? Cô đưa đây cho tôi xem nào. Nó có xào nấu lên ăn được không? Nó có thể rót ra bát uống thay rượu được không? Nó có thể làm cột, làm kèo hay chân bàn ghế được không? Không phải, đúng không? Thế nó là cái gì? Thứ không ăn, không uống, không bán, không mua được thì làm gì có. Vớ vẩn! Còn “trái tim tôi thuộc về anh ấy ư?”. Nếu móc nó ra được cô cứ việc cho, cứ việc tặng cho bất cứ người nào cũng được, tôi cóc cần. Cô có giỏi lôi nó ra cho tôi xem đi; có lấy ra được không? Toàn là hàng giả, lừa dối nhau chứ thực ra chẳng có cái chó gì cả. Tôi nói thẳng ra cho cô biết, thằng đàn ông cần là thể xác đàn bà hắn sở hữu khi màn đêm buông xuống. Ban ngày nấu cơm, mua thịt chó cho hắn uống rượu, vậy thôi!
- Tôi sẽ mang con đi khỏi cái nhà này.
- Dễ nhỉ!
Thủy cười khinh khỉnh rồi bất ngờ gầm lên:
- Nếu cô ra khỏi cái nhà này, tôi sẽ cho con bé một nhát dao rồi tự tử luôn cho cô xem!
Hải buộc lòng phải ở lại cái nhà ấy vì con gái, và vì… cái thai trong bụng Hải đang lớn dần - kết quả của mối tình vụng trộm. Hải làm cái bóng trong chính ngôi nhà của mình; tìm hạnh phúc ở các con, tự giam cầm mình trong bốn bức tường vô hình. Tất cả đắng cay, cơ cực trong suốt gần ba chục năm qua phải chôn chặt vào lòng giờ đây đến lúc phải nói ra cho thanh thản trước lúc về bên kia thế giới.
*
- Hoàng Minh!
Bà giáo gọi và đưa mắt âu yếm nhìn con gái út.
- Sau khi chôn cất mẹ xong, hai chị em mới được mở chiếc rương này. Bây giờ con hãy khóa nó lại cho mẹ, nâng lên cao cho mẹ nhìn kỹ một lần nữa nào.
- Bà ơi, tôi luộc được trứng cho bà rồi đây.
Không biết ông Thủy vào từ lúc nào, trên tay bưng một rổ trứng gà còn bốc hơi nghi ngút ngồi ghé xuống cạnh gường, ông nói tiếp.
- Bà ăn tôi bóc nhé.
- Hự!
Bà giáo Hải bỗng nấc lên, hai tay buông xuôi hình như còn thoảng nét đau đớn hiện trên khuôn mặt.
Sau lễ mở cửa mả cho bà giáo, ba cha con ông Thủy đốt hương khấn vái trước khi mở chiếc rương của bà Hải. Trong rương có một chiếc khăn mùi xoa thêu hai con chim bồ câu màu xanh giành nhau một trái tim màu đỏ bao bọc một chiếc phong bì màu xanh. Ông Thủy dành phần đọc thư:
“Ngày… tháng… năm…”
Hai con thương yêu!
Mẹ có lỗi với hai con vì không đủ can đảm nói lên sự thật cho hai con biết khi còn sống. Song lúc này có lẽ cũng chưa muộn.
Con gái, con tên thật là Lại Lê Hận, Hận chứ không phải Hân. Con mang họ Lê; cha con không về với mẹ như ước hẹn, trong lúc đó mẹ lại bị cưỡng đoạt khi đã mang hình hài của con nên đành phải lấy một kẻ không hề yêu thương làm chồng. Khi cha con hoàn thành nhiệm vụ trở về, lại đúng vào ngày mẹ cưới chồng, nên lặng lẽ về đơn vị ngay. Hai năm sau, cha con hi sinh trong cuộc chiến bảo vệ biên giới. Ngôi mộ ở nghĩa trang liệt sĩ thành phố mà hàng năm đến ngày mưới tám tháng chín mẹ vẫn dắt con đến viếng, đó chính là phần mộ cha con.
Hoàng Minh, con!
Con có họ tên đầy đủ theo giấy khai sinh: Lại Vũ Hoàng Minh. Nhưng họ Vũ mới là họ của con, Hoàng Minh là tên quê cha đẻ của con. Đúng ra con phải là Vũ Hoàng Minh. Do hoàn cảnh ép buộc mẹ đành để con mang họ Lại suốt bao nhiêu năm nay. Mẹ nhờ con mang toàn bộ số sổ để trong hòm này đưa tận tay người chủ nhà con đang trọ học. Người ấy chính là ba đẻ của con; ông ấy sẽ đọc được những ký hiệu viết trong các cuốn nhật ký vì ông ấy đã dạy mẹ.
Mẹ có lỗi với các con, với cha các con. Mẹ muốn khuyên hai con của mẹ một lời cuối cùng: Sau này, hãy kết hôn với người nào yêu mình, và mình cũng yêu người ấy. Chỉ có tình yêu thật sự mới có được hạnh phúc. Đừng vì một phút thiếu suy nghĩ mà quyết định hạnh phúc sẽ ân hận cả đời.
Hãy tha lỗi cho mẹ.
Người mẹ bất hạnh của hai con.
Hải
- Ha, ha, ha …
Buông rơi lá thư, ông Thủy ngửa mặt lên trời cười, tiếng cười như điên dại. Hết cười, ông bước lại bên bàn thờ, đốt hương, chắp tay vái rồi nói:
-Tôi xin lỗi bà vì đã không nói cho bà biết lúc bà còn sống; chuyện các con, tôi đã biết từ lâu nhưng vì yêu bà, yêu các con nên tôi chấp nhận tất cả.
Lời khấn vừa dứt, bỗng bát hương trên bàn thờ đùng đùng bốc cháy như bị tưới xăng, hai người con đứng phía sau kêu thất thanh:
- Cháy, cháy; Ba ơi chạy đi!