Về miền ký ức Rừng Sác

Thứ Sáu, 26/12/2025, 05:32

Đứng giữa Rừng Sác hôm ấy, tôi bỗng thấy lòng mình lặng đi. Bầu trời rợp bóng đước, gió mang theo vị mặn của biển, mùi phù sa, mùi lá cây mục nát hòa vào nhau như tầng tầng ký ức. Tôi tưởng chừng như nghe được tiếng chân những người lính xưa bước trong bùn lún sâu; tiếng tay chèo khua nước trong đêm, tiếng hơi thở căng lên khi bám dây vượt sông, tiếng trái tim những chiến sĩ trẻ đập thình thịch khi đối diện hiểm nguy mà vẫn không lùi bước.

Tôi sinh ra trong những năm tháng yên bình của đất nước, lớn lên giữa những tiếng xe ồn ào đều đặn mỗi ngày, giữa những buổi tan trường ríu rít tiếng cười đùa... Dĩ nhiên không còn tiếng bom rung chuyển mặt đất, không còn khung cảnh chia tay vội vã trên sân ga, đò chiều; càng không phải chứng kiến những bước chân người lính ra trận khi mái đầu còn xanh.

Nhưng lạ thay, mỗi lần mở lại những trang sử vàng, đọc hồi ký của các bậc tiền nhân hay xem bộ phim “Bông hoa Rừng Sác”, “Bộ đội đặc công Rừng Sác”…, trong tôi lại trỗi dậy lên một ước mong khó tả, đó là được một lần tìm về miền ký ức ấy, được đứng trên mảnh đất hào hùng mà biết bao người lính đặc công đã ngã xuống, để nghe nhịp thở của rừng ngập mặn từng thấm đẫm máu, mồ hôi và cả nước mắt đau thương.

Ký ức hào hùng của ngày hôm qua    

Và rồi, cơ duyên đến thật nhẹ nhàng, khi tôi được tham gia Liên hoan Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác cụm miền Đông Nam Bộ tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh. Chỉ hơn một giờ di chuyển, đoàn đã đặt chân đến địa danh Rừng Sác (nay thuộc xã Cần Giờ, TP. Hồ Chí Minh).

Khi ánh nắng đầu ngày vừa tách khỏi những tầng mây, mặt nước hiện lên óng ánh một sắc vàng mỏng nhẹ như lụa. Tiếng gió lùa qua từng tán đước, tiếng chim líu lo gọi bầy trên cao, tiếng sóng lăn tăn chạm vỗ vào mạn thuyền… Tất cả hòa thành một bản nhạc tinh khôi của vùng đất đặc biệt này. Ca nô đưa chúng tôi len vào hệ thống kênh rạch ngoằn ngoèo.

1.jpg -0
Đoàn đại biểu Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác cụm Miền Đông Nam Bộ chụp ảnh lưu niệm cùng Hội Cựu Chiến binh Đoàn 10 Rừng Sác.

Hai bên bờ, những cánh rừng đước xanh thẫm, rễ tua tủa cắm xuống bùn như những cánh tay lực lưỡng, dẻo dai bám chặt vào đất mẹ suốt bao mùa lũ qua. Rừng Sác không ồn ào, không phô trương, nhưng lại mang trong mình vẻ đẹp thầm lặng của một vùng đất từng được gọi là “vùng đất chết”, nơi cái sống và cái chết chỉ cách nhau bằng một hơi thở.

Theo lộ trình, chúng tôi dừng chân ở Đảo Khỉ, nơi từng đàn khỉ tinh nghịch ngồi vắt vẻo trên những cành đước, bất thình lình nhảy tót chiếm lấy chiếc bánh của du khách đang gặm dở trên tay rồi vụt đi mất hút. Một đoạn đường nữa, chúng tôi đến hồ Cá sấu hoa cà, loài thú dữ một thời là hiểm nguy rình rập người lính đặc công năm xưa. Nhưng phải đến khi đặt chân vào khu căn cứ, nhìn những mô hình tái hiện Nhà cảnh vệ, Nhà quân nhu, hầm trú ẩn, xưởng quân giới, hay cảnh bộ đội cưa bom lấy thuốc nổ… chúng tôi mới thực sự chạm vào chiều sâu của lịch sử. Những hình ảnh ấy không chỉ là mô phỏng, nó như mở ra một cánh cửa dẫn về quá khứ, nơi mỗi bước đi của những người lính đều chứa đựng sự hy sinh thầm lặng.

Đặc biệt hơn cả, chuyến đi hôm ấy có sự đồng hành của hai nhân chứng sống của Đoàn 10 đặc công rừng Sác, cô Phạm Thị Nhung (biệt danh Tám Nhung), nguyên y tá đơn vị, và chú Huỳnh Đồng (biệt danh Chín Đồng), nguyên Trung đội trưởng Trinh sát và một số cựu chiến binh khác. Hai con người, hai số phận, hai cuộc đời nhưng cùng chung một mảnh ký ức đầy máu lửa.

Cô Tám Nhung nói chuyện nhẹ nhàng, chậm rãi và dịu hiền như gió thổi hiu hiu ngoài nội đồng, nhưng mỗi câu kể lại như nhỏ xuống lòng người thứ dư vị mặn chát của những năm tháng chiến trường ác liệt. “Ban đầu cô vào đoàn văn công, hát múa cho anh em đỡ nhớ nhà. Sau đó được cử đi học y tá rồi quay lại Rừng Sác, như cái duyên không dứt được”. Nụ cười của cô trầm mà sáng, “làm y tá thời ấy đâu chỉ là băng bó vết thương đơn thuần; có loại thuốc cần nước cất, nhiều lúc khan hiếm quá, không có nó thì anh em dùng nước dừa tươi thay thế. Thiếu thốn trăm bề, nhưng chỉ cần cứu được mạng ai là vui như mình được sống lại”.

Giọng cô Tám Nhung thanh âm vẫn nhẹ nhàng như đang kể chuyện của một ai đó, nhưng tôi biết phía sau mỗi câu chuyện ấy là cả một vùng ký ức đau thương mà cái chết luôn hiện hữu thường trực.

Cô kể rằng cuộc sống chiến đấu của bộ đội Đoàn 10 giữa rừng ngập mặn ngày ấy khắc nghiệt đến mức khó ai hình dung nổi. Không có nhà, không có chỗ trú chân cố định, “tán rừng là mái nhà, gốc cây là nơi ngủ, còn con sông Lòng Tàu là trận địa, là đường sống, cũng là nơi có thể mất mạng bất cứ lúc nào”. Cô nói chậm rãi nhưng ánh mắt lại sáng lên sự kiêu hãnh của một người từng đi qua lửa đạn.

“Ở rừng, khi yên ắng thì không sao, vẫn tranh thủ nấu được nồi cơm, vá được manh áo rách. Nhưng chỉ cần nghe tiếng trực thăng vần vũ, hay tiếng tàu giặc rẽ nước ngoài sông là phải giấu mình ngay tức khắc”. Cô dừng lại, đưa tay vuốt hờ tà áo như để nén một điều gì đó đã ngủ rất lâu trong ký ức.

2.jpg -1
Đại diện Đoàn đại biểu Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác cụm Miền Đông Nam Bộ tặng quà cho Hội Cựu Chiến binh Đoàn 10 Rừng Sác (cô Tám Nhung bìa phải thứ hai, chú Chín Đồng bìa phải thứ ba).

“Tôi còn nhớ… có những ngày địch càn quét kinh hoàng. Khói bốc lên đỏ rực cả góc rừng, anh em chạy tứ hướng tìm hầm, tìm gốc đước mà ẩn. Có nữ chiến sĩ… vừa mới sinh con xong, chưa kịp hồi sức, vậy mà cũng phải ôm con mà chạy. Chạy trong bùn, trong nước mặn, vừa chạy vừa lo đứa nhỏ khóc sẽ bị lộ vị trí. Nhưng biết làm sao được… chiến tranh tàn khốc, ác liệt như thế mà…”. Giọng cô không run, nhưng tiếng nói nhỏ dần, nghe như vọng từ đáy rừng sâu năm ấy.

“Có hôm trốn dưới mương nước cả mấy tiếng đồng hồ, đứa trẻ đói quá khóc thét, người mẹ cắn răng ôm con mà nước mắt chảy ròng. Mấy chị em y tá như cô chỉ biết nắm tay nhau mà chờ qua cơn càn, địch rút rồi mới dám ngoi lên”. Nói đến đây, cô Tám Nhung khẽ mỉm cười - nụ cười đầy nước mắt nhưng cũng đầy sự dũng mãnh. “Vậy mà rồi ai cũng vượt qua, tình đồng đội lớn đến mức xua đuổi được cả sợ hãi. Chỉ cần giữ được nhau, còn sống với nhau là quý lắm rồi”.

Chú Chín Đồng giọng trầm, chắc, mạch kể chuyện thỉnh thoảng ngắt quãng bởi hơi thở đã nặng tuổi, nhưng ánh mắt vẫn sáng như lửa rừng năm nào. Trước Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, chú nói như đang độc thoại với các đồng đội đã khuất. “Cực lắm các con ơi, cơm không đủ ăn, nước ngọt không đủ uống, áo không đủ mặc. Có lúc khát quá, anh em phải lặn xuống sông húp từng ngụm nước mặn để cầm hơi tạm”. Chú kể về những lần địch càn, cháy sạch cả lán trại lẫn quần áo. “Có người có áo không quần, có người có quần không áo, vậy mà vẫn tươi cười vô tư, chắc nhờ tinh thần lạc quan còn mạnh hơn cái chết”.

Những câu kể mộc mạc, chân thật, không bi lụy, không cường điệu hóa, nhưng càng nghe càng như cảm thấy một Rừng Sác hiện lên trong sương khói ký ức, khắc nghiệt, dữ dội mà kiêu hùng.

Rồi chú uống vội ngụm nước, tiếp tục kể chuyện chạy bom, chạy đạn. “Ai nhanh thì sống, ai chậm thì…”. Bất chợt chú dừng lại, mắt nhìn xa xa như xuyên qua cả cánh rừng đang rì rào trước mặt. Nhiều đồng đội đã ngã xuống như thế, ngay trên chính con đường mà hôm nay chúng tôi đang đứng. Có lần chú bị thương nặng, suýt phải cưa chân, “sống được tới giờ là nhờ anh em dìu nhau mà qua”. Câu nói tưởng bình thường nhưng chứa đựng cả một trời nghĩa tình đồng đội nơi chiến trường đỏ lửa.

Hơi thở của rừng hôm nay     

Đứng giữa Rừng Sác hôm ấy, tôi bỗng thấy lòng mình lặng đi. Bầu trời rợp bóng đước, gió mang theo vị mặn của biển, mùi phù sa, mùi lá cây mục nát hòa vào nhau như tầng tầng ký ức. Tôi tưởng chừng như nghe được tiếng chân những người lính xưa bước trong bùn lún sâu; tiếng tay chèo khua nước trong đêm, tiếng hơi thở căng lên khi bám dây vượt sông, tiếng trái tim những chiến sĩ trẻ đập thình thịch khi đối diện hiểm nguy mà vẫn không lùi bước.

Ngày nay, Rừng Sác đã trở thành điểm đến nổi tiếng, là Khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận. Du khách đến đây để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ, để cảm nhận không khí trong lành, thoáng đãng, để nhìn thấy sự mạnh mẽ, hiên ngang của thiên nhiên. Nhưng với những người lính năm xưa, và cả thế hệ hôm nay muốn tìm về quá khứ, Rừng Sác còn là một trang sử sống vô giá. Mỗi thân đước, mỗi tán cây xanh, mỗi khúc sông nơi đây đều như thấm đẫm máu, mồ hôi của bao thế hệ tiền nhân đã nằm xuống mãi mãi.

Chuyến đi ngày ấy không chỉ là một hành trình, mà là một cuộc trở về, trở về với lịch sử, với lòng tri ân sâu sắc, với sự tỉnh thức trong tâm hồn. Nhờ đó, tôi thấu suốt thêm rằng để có được những tháng ngày yên bình hôm nay, đã có biết bao tuổi trẻ đã mãi mãi nằm lại giữa những tầng rễ đước kia. Biết bao khát vọng hòa bình được đánh đổi bằng cả gian khổ, bằng xương máu và nước mắt.

Khi ca nô rời bến, rừng đước lùi dần sau lưng và trở nên khuất bóng, tôi vẫn còn nghe vang vọng đâu đó tiếng kể chuyện trầm ấm của chú Chín Đồng, tiếng cười hiền mà ẩn chứa cả một thời đau thương của cô Tám Nhung. Hai nhân chứng lịch sử, hai ngọn lửa sống đã giúp thắp sáng trong lòng chúng tôi niềm tin son sắt và niềm tự hào vô biên về thế hệ đi trước.

Về miền ký ức Rừng Sác là để thấy mình, để dặn lòng phải sống đẹp hơn, có trách nhiệm và sống tử tế hơn. Để mỗi ngày trôi qua đều trở thành một sự tri ân lặng lẽ dành cho những bậc tiền bối đã ngã xuống. Bởi chỉ khi hiểu được những mất mát của quá khứ, ta mới biết trân trọng sâu sắc hơn những giá trị của hòa bình của hôm nay.

Hoàng Danh
.
.
.