Lý Ban - Người chiến sĩ quốc tế xuất sắc của Đảng

Chủ Nhật, 18/02/2007, 08:30
Đồng chí Lý Ban tên thật là Bùi Công Quan, sinh ngày 10/6/1912 tại Long Hòa, Cần Đước, tỉnh Long An. Chịu ảnh hưởng phong trào yêu nước ở địa phương mà đồng chí sớm giác ngộ, năm 1927, đang học trung học tại Chợ Lớn, trò Quan được thầy Phạm Văn Đồng giới thiệu tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí hội.

Trò Quan vừa học vừa tích cực tham gia tuyên truyền vận động cách mạng trong thanh niên, học sinh và cộng đồng người Hoa tại Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1929, Bùi Công Quan tham gia An Nam Cộng sản Đảng và năm 1930 trở thành đảng viên Đảng Cộng sản (ĐCS) Đông Dương. Đồng chí bị mật thám Pháp bắt 2 lần vào năm 1931 nhưng vì không có chứng cứ nên chúng phải thả về và quản thúc tại quê.

Năm 1932, bí mật lên Sài Gòn bắt liên lạc với tổ chức nhưng không thành, để tránh sự truy nã, đồng chí bí mật xuống tàu biển sang Hồng Công. Tại Quảng Đông, Bùi Công Quan tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc. Đầu năm 1934, đồng chí được cử đi học Trường Đảng tại Khu Căn cứ Xôviết  trung ương Thụy Kim (tỉnh Giang Tây).

Thời gian này, đồng chí Lý Ban nỗ lực học tập, tiếp thu một cách có hệ thống lý luận và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng. Các cán bộ cao cấp của ĐCS Trung Quốc như Chu Ân Lai, Đổng Tất Võ, Lý Phú Xuân, Diệp Kiếm Anh... đã chú ý giúp đỡ Lý Ban - người học viên Việt Nam trẻ tuổi.

Tại đây, đồng chí được kết nạp vào ĐCS Trung Quốc, gặp và kết thân với một chiến sĩ cách mạng người Hà Nội tên là Vũ Nguyên Bác (tức Nguyễn Sơn - Hồng Thủy), khi đó là cán bộ chỉ huy Hồng quân Công nông.

Cuối 1934, Tưởng Giới Thạch huy động 1 triệu quân bao vây Khu Căn cứ Thụy Kim. Để bảo toàn lực lượng, Hồng quân Công nông đã chiến đấu phá vây, tiến hành cuộc Vạn lý Trường chinh lên tây bắc lập Khu Căn cứ mới. Hai chiến sĩ cách mạng Việt Nam - Hồng Thủy, Lý Ban - cùng tham gia cuộc lui quân chiến lược này.

Trên đường hành quân, Lý Ban bị ốm nặng, phải nằm lại nhà dân. Sau khi qua cơn nguy biến, tuy chưa bình phục nhưng đồng chí vẫn một mình dũng cảm vượt hàng nghìn cây số, vượt qua sự truy đuổi của quân thù, tìm đường về Quảng Đông, bắt liên lạc với tổ chức.

Trong cuộc kháng chiến chống Nhật ở Trung Quốc (1937-1945), đồng chí được tín nhiệm bầu vào Ban Chấp hành Liên Tỉnh ủy Quảng Đông - Giang Tây - Phúc Kiến. Trên cương vị cán bộ lãnh đạo, đồng chí có nhiều đóng góp trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, chỉ huy chiến tranh du kích ở nước bạn, gây cho quân Nhật nhiều tổn thất.

Đầu năm 1946, Lý Ban trở về Việt Nam. Tại Hà Nội, đồng chí được bố trí công tác ở Cơ quan Trung ương Đảng. Năm 1947, đồng chí được phân công là Giám đốc Hoa kiều vụ của Chính phủ, rồi Cục phó Cục Chính trị Quân đội quốc gia Việt Nam, góp phần chỉ đạo các đơn vị chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược.

Đầu 1949, Quân giải phóng Trung Quốc làm chủ Bắc Kinh, tiến quân giải phóng Hoa Nam. Tại Chiến khu Việt Bắc, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch nhận định: Cách mạng Trung Quốc sắp đến ngày toàn thắng, điều này sẽ ảnh hưởng rất tích cực đến cuộc kháng chiến của dân tộc ta.

Giữa Đảng ta và ĐCS Trung Quốc vẫn duy trì liên lạc qua đường điện báo nhưng thực tế đường thông tin này nhiều khi bị gián đọan. Do đó, Trung ương và Hồ Chủ tịch quyết định cử phái viên cao cấp, vượt vòng vây của quân Pháp, vượt biên giới sang Trung Quốc và vượt qua các địa phương do Quốc dân đảng kiểm soát, đến Bắc Kinh gặp đại diện Trung ương ĐCS Trung Quốc đặt vấn đề hợp tác.

Thực dân Pháp cũng thừa hiểu mối nguy hại nếu Chính phủ Hồ Chí Minh nhận được sự ủng hộ của những người Cộng sản Trung Hoa khi họ thắng lợi. Vì vậy, Cơ quan Tình báo Pháp tăng cường theo dõi chặt chẽ các nguồn tin trong khu vực Đông Nam Á và tăng cường phong tỏa đường biên giới.

Để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt  này, Trung ương và Hồ Chủ tịch tin tưởng giao cho một cán bộ rất am hiểu về Trung Quốc, có khả năng độc lập hoàn thành nhiệm vụ, có sức khỏe tốt vì phải vượt qua một chặng đường bộ dài hàng vạn cây số với địa hình hiểm trở.  Đó là đồng chí Lý Ban.

Cùng đi với Lý Ban là đồng chí Nguyễn Đức Thụy - một cán bộ am hiểu địa hình Hải Ninh và các huyện Đông Hưng, Phòng Thành (Quảng Đông, Trung Quốc). Trước khi lên đường, Hồ Chủ tịch giao cho đồng chí Lý Ban một bức thư viết bằng chữ Hán, theo một quy ước đặc biệt, gửi vợ chồng người bạn thân là ông Chu, bà Đặng.

Từ trái qua phải: Đồng chí Lê Văn Lương, Đại sứ Trung Quốc La Quý Ba, Tổng Bí thư Trường Chinh và đồng chí Lý Ban tại chiến khu Việt Bắc năm 1954.

Cuối tháng 4/1949, 2 đồng chí rời Việt Bắc, vượt vòng vây quân Pháp ra Hải Ninh đến Móng Cái. Từ đây, Lý Ban đóng giả thương nhân vượt biển sang Phòng Thành, vượt qua sự kiểm soát của quân đội Quốc dân đảng, tìm về Khu căn cứ Tỉnh ủy Quảng Đông.

Được sự giúp đỡ của các tổ chức ĐCS Trung Quốc, 2 phái viên cao cấp vượt qua các  chiến tuyến đến Bắc Kinh vào tháng 8/1949. Bức thư của Hồ Chủ tịch được đồng chí Lý Ban bảo vệ hết sức cẩn trọng suốt hành trình gian khổ và chuyển tận tay vợ chồng đồng chí Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu. Hai phái viên đã gặp, làm việc với Trung ương ĐCS Trung Quốc.

Như vậy, 2 đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao phó, đặt những viên gạch đầu tiên cho quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa 2 đảng, 2 nhà nước  trong tình hình mới. Sự kiện này đã được ghi trong cuốn sách “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc những sự kiện 1945-1960 do NXB Khoa học xã hội ấn hành năm 2003.

Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa được thành lập. Ngày 18/1/1950, CHND Trung Hoa công nhận nước Việt Nam DCCH và ngày này được coi là “Ngày thắng lợi ngoại giao” của nước Việt Nam mới.

Những năm kháng chiến chống Pháp, đồng chí Lý Ban phụ trách việc tiếp nhận sự giúp đỡ của Trung Quốc. Hòa bình lập lại, đồng chí được phân công về Bộ Công Thương củng cố Ngân hàng Quốc gia, xây dựng ngành Hải quan. Năm 1958 khi Bộ Ngoại thương được thành lập, đồng chí được bổ nhiệm làm Thứ trưởng kiêm Bí thư Đảng đoàn. Tại Đại hội III của Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí được tín nhiệm bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương.

Những năm công tác tại Bộ Ngoại thương, đồng chí đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, cùng toàn ngành đảm bảo xuất, nhập khẩu, kịp thời phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Là cán bộ rất am hiểu về Trung Quốc, có mối quan hệ tin cậy với các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc, đồng chí có nhiều đóng góp trong việc tranh thủ sự giúp đỡ có hiệu quả của nhân dân Trung Quốc cho Cách mạng Việt Nam suốt các năm 1960-1975.

Sau ngày 30/4/1975, đồng chí trở về quê hương Long An, gặp lại người mẹ già và gia đình sau 43 năm xa cách. Trên cương vị cán bộ lãnh đạo Bộ, đồng chí tích cực chăm lo, huy động cán bộ miền Bắc vào tăng cường xây dựng ngành Ngoại thương TP HCM và các tỉnh phía Nam, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động sau chiến tranh, tạo nguồn hàng xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước. Năm 1978, đồng chí về nghỉ hưu. Ngày 30/9/1981, đồng chí từ trần tại TP HCM, hưởng thọ 69 tuổi.

Nhân kỷ niệm 77 năm Ngày thành lập ĐCS Việt Nam, chúng ta cùng tưởng nhớ đến lão đồng chí Lý Ban - một trong những đảng viên  lớp đầu tiên của Đảng, một chiến sĩ quốc tế xuất sắc có những đóng góp quý báu cho  sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc, một cán bộ cách mạng mẫu mực hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó, có những đóng góp quý báu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trần Duy Hiển
.
.
.