Để hàng Việt chinh phục thị trường Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ

Thứ Năm, 25/12/2025, 08:04

Trong bối cảnh xuất khẩu sang các thị trường truyền thống ngày càng gặp nhiều rào cản, Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ đang nổi lên như những thị trường tiềm năng, đặc biệt đối với nông sản, thực phẩm của Việt Nam.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 11 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường trọng điểm trong khu vực đạt kết quả tích cực: UAE đạt 5,4 tỷ USD, Ả Rập Saudi đạt 1,9 tỷ USD và Thổ Nhĩ Kỳ đạt 1,6 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu chính tập trung vào các sản phẩm công nghệ cao như điện thoại và linh kiện; máy tính và các sản phẩm điện tử, giày dép, dệt may, thủy sản, gạo, hạt điều, hạt tiêu... Tuy nhiên, so với quy mô và nhu cầu thực tế của thị trường, con số này vẫn còn khá khiêm tốn, đặc biệt đối với nhóm hàng nông sản và thực phẩm chế biến.

co hoi.jpg -0
Doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng tối đa các cơ hội để tăng độ phủ của thương hiệu Việt trên thị trường quốc tế, đặc biệt là thị trường Halal.

Ông Trần Phú Lữ, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP Hồ Chí Minh (ITPC) cho rằng, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đối mặt với nhiều yếu tố phức tạp, việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đặc biệt là khai thác thị trường tiềm năng như Halal tại Trung Đông không chỉ là lựa chọn mà đã trở thành điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp Việt Nam duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu.

Bên cạnh đó, có thêm một thị trường mở tiềm năng đó là Thổ Nhĩ Kỳ, với gần 90 triệu dân. Thổ Nhĩ Kỳ còn được xem là “cửa ngõ” quan trọng để hàng hóa Việt Nam tiếp cận sâu hơn thị trường Trung Đông và Liên minh châu Âu (EU). Quốc gia này là thành viên G20, giữ vị trí chiến lược tại điểm giao thoa Á - Âu và có vai trò quan trọng trong Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC).

Bà Nguyễn Việt Hằng, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Thổ Nhĩ Kỳ cho biết, trong 11 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này ghi nhận sự chuyển dịch tích cực. Bên cạnh các mặt hàng công nghệ như điện thoại, điện tử và máy móc, nhóm nông sản có mức tăng trưởng ấn tượng, đặc biệt là gạo với mức tăng kỷ lục hơn 1.893%. Các mặt hàng truyền thống như hạt tiêu, cao su, thủy sản tiếp tục duy trì sự ổn định. Ở chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ các loại máy móc, dược phẩm và hóa chất phục vụ sản xuất, tiêu dùng trong nước.

Đáng chú ý, sự kiện liên danh VIETUR do Tập đoàn IC Ictas Construction (Thổ Nhĩ Kỳ) dẫn đầu trúng thầu dự án Nhà ga hành khách sân bay Long Thành trị giá 1,5 tỷ USD đã góp phần củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ vào môi trường đầu tư Việt Nam, mở ra dư địa hợp tác mới trong các lĩnh vực hạ tầng, giao thông và môi trường.

Một trong những “chìa khóa” quan trọng để hàng hóa Việt Nam thâm nhập Trung Đông và Thổ Nhĩ Kỳ là thị trường Halal. Theo bà Nguyễn Phương Trà, Vụ trưởng Vụ Trung Đông - châu Phi, Bộ Ngoại giao, thị trường Halal hiện chiếm khoảng 25% dân số thế giới và dự báo quy mô kinh tế có thể đạt 10.000 tỷ USD trước năm 2028. Riêng lĩnh vực thực phẩm Halal được kỳ vọng tăng từ 2.715 tỷ USD năm 2024 lên gần 5.911 tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng khoảng 9% mỗi năm.

Tuy nhiên, đi cùng với cơ hội là những thách thức không nhỏ. Hệ thống tiêu chuẩn Halal rất đa dạng và phức tạp, khác nhau giữa các khu vực và quốc gia. Doanh nghiệp phải phân biệt rõ các bộ tiêu chuẩn như GSO 993:2015 tại các nước GCC, MS 1500:2019 của Malaysia hay OIC/SMIIC 1:2019 được chấp nhận tại 56 quốc gia thành viên OIC. Chi phí chứng nhận cao, thời hạn hiệu lực ngắn và yêu cầu hậu kiểm nghiêm ngặt đang là rào cản lớn đối với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.

Ông Ramlan Osman, Giám đốc Trung tâm Chứng nhận Halal Quốc gia (HALCERT) cho rằng, các giá trị của Halal có sự tương đồng lớn với các tiêu chuẩn phát triển công nghiệp hiện đại như nguyên tắc của Hiệp ước Toàn cầu Liên hợp quốc (UNGC) và các tiêu chí môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Việc áp dụng thực hành Halal không chỉ phục vụ cộng đồng người Hồi giáo mà còn mang lại lợi ích cho tất cả người tiêu dùng thông qua việc đảm bảo an toàn, vệ sinh và phát triển bền vững. Với triết lý “Halal - Thoyyib”, các sản phẩm đạt chuẩn này chính là minh chứng cho chất lượng cao và sự an toàn, phù hợp với xu hướng tiêu dùng xanh và sạch trên toàn cầu.

Việt Nam hiện đã ban hành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) đồng bộ về Halal, bao gồm TCVN 12944:2020 về thực phẩm Halal, TCVN 13708:2023 về thực hành nông nghiệp tốt, hay mới nhất là TCVN 14230:2024 về dịch vụ du lịch thân thiện với người Hồi giáo. Đây là cơ hội để doanh nghiệp Việt tự tin chuẩn bị nguồn lực để chinh phục thị trường Halal khó tính nhất.

Để tận dụng hiệu quả cơ hội từ hai thị trường giàu tiềm năng này, các chuyên gia cho rằng cần sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp. Trong đó, việc xây dựng chiến lược xuất khẩu Halal quốc gia, thành lập hiệp hội doanh nghiệp Halal, tăng cường xúc tiến thương mại chuyên sâu và hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin thị trường là những giải pháp mang tính then chốt.

Về phía doanh nghiệp, cần chủ động đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, chuẩn hóa quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn Halal, minh bạch chuỗi cung ứng và xây dựng thương hiệu dài hạn. Việc tham gia các hội chợ, triển lãm uy tín như Saudi Food Expo, Halal Trade Expo Dubai hay MIHAS Malaysia cũng là kênh hiệu quả để kết nối trực tiếp với các hệ thống phân phối lớn tại Trung Đông.

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt, nếu biết tận dụng tốt thị trường Trung Đông với hơn 2 tỷ người tiêu dùng Hồi giáo cùng “vị trí vàng” của Thổ Nhĩ kỳ, Việt Nam có thể tạo ra động lực tăng trưởng đột phá, mở rộng quy mô xuất khẩu vượt bậc trên thế giới.

Nguyễn Cảnh
.
.
.