Cần thận trọng khi thiết kế chính sách thuế với thuốc lá

Thứ Sáu, 09/08/2024, 18:46

Nhìn lại lịch sử tăng thuế thuốc lá tại nước ta sẽ thấy có mối liên hệ rõ ràng giữa việc tăng thuế và tăng thuốc lá lậu. Vì thế, theo các chuyên gia, cần thận trọng xem xét mối tương quan giữa việc tăng thuế và tình trạng buôn lậu thuốc lá khi thiết kế chính sách thuế đối với thuốc lá.

Cơ hội cho thuốc lá lậu từ đâu?

Năm 2016, Việt Nam tăng thuế từ 65% lên 70% dẫn đến số lượng thuốc lá lậu bị tiêu hủy tăng từ 6,8 triệu bao vào năm 2016 lên gần 7,5 triệu bao trong năm 2017.

Năm 2019, khi tăng thuế từ 70% lên 75%, số lượng thuốc lá lậu bị tiêu hủy tăng từ gần 1,4 triệu bao trong năm 2019 lên hơn 5,1 triệu bao vào năm 2020 và lên gần 6,6 triệu bao vào năm 2021.

Dựa vào thực trạng hiện nay, các chuyên gia cho rằng, thuốc lá lậu có thể tránh cả 2 loại thuế chính yếu là thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt, nên khi thuế tiêu thụ đặc biệt tăng sẽ tác động trực tiếp lên thuốc lá hợp pháp trong khi thuốc lá lậu không bị ảnh hưởng, dẫn đến việc giảm sản lượng hợp pháp và tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để thuốc lá lậu chen vào.

Cần thận trọng khi thiết kế chính sách thuế với thuốc lá -0
Lực lượng chức năng tiêu huỷ thuốc lá nhập lậu.

Phát biểu tại hội thảo “Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm thuốc lá” vừa diễn ra tại Hà Nội, ông Kiều Dương, Vụ trưởng Vụ Chính sách - Pháp chế, Tổng cục Quản lý Thị trường (Bộ Công Thương) cho biết, trong giai đoạn 5 năm 2019-2023, các lực lượng chức năng đã bắt giữ được 59.637 vụ buôn lậu thuốc lá, đưa ra truy tố, xét xử nhiều tổ chức, cá nhân, tịch thu nhiều phương tiện vận chuyển. Tổng số thuốc lá nhập lậu bị thu giữ là 37,5 triệu bao, số lượng bị tiêu hủy là 22,1 triệu bao.

Cần thận trọng khi thiết kế chính sách thuế với thuốc lá -0
Ông Kiều Dương, Vụ trưởng Vụ Chính sách - Pháp chế, Tổng cục Quản lí Thị trường nhấn mạnh, khi thuế đối với sản phẩm hợp pháp tăng đột ngột sẽ tạo thêm thử thách cho mặt trận chống thuốc lá lậu.

Nói rõ về cơ sở khiến tình trạng buôn lậu thuốc lá ở thị trường Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp trong giai đoạn vừa qua, bên cạnh yếu tố khách quan như biên giới dài, các quốc gia lân cận không có chính sách phòng, chống thuốc lá lậu kiên quyết như Việt Nam, thì lợi nhuận buôn lậu thuốc lá rất lớn, lớn hơn cái giá mà người buôn lậu phải trả nếu như bị phát hiện và xử phạt.

Đồng tình với ý kiến đó, ông Nguyễn Chí Nhân, Tổng thư ký Hiệp hội Thuốc lá Việt Nam (VTA), cũng đưa ra bức tranh cụ thể hơn về sản lượng thuốc lá nhập lậu vẫn đang diễn ra song hành với thuốc lá hợp pháp một cách phức tạp, tinh vi tại nội địa. Thuốc lá lậu ước lượng chiếm 13% - 15% tổng sản lượng toàn Việt Nam (tương đương 4,8 - 5 tỷ bao).

Dù có những nỗ lực rất lớn từ các bộ, ngành và Chính phủ, tình hình buôn lậu vẫn chưa được cải thiện do đặc thù của Việt Nam có đường biên giới dài với các quốc gia láng giềng và sự bất chấp của người bán thuốc lá lậu do lợi nhuận cực cao.

Ngoài ra, nhiều bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á cho thấy việc tăng thuế thuốc lá cao và đột ngột tạo cơ hội cho thuốc lá lậu chiếm lĩnh thị trường, điều này đã không hỗ trợ được các quốc gia đạt mục tiêu tăng thu thuế cũng như giảm tỷ lệ hút thuốc lá.

Điển hình như Malaysia sau khi tăng thuế vào giai đoạn 2014-2015, sản lượng thuốc lá hợp pháp giảm 55% chỉ sau 5 năm, thuốc lá lậu chiếm 65% thị phần vào năm 2020, gây thất thoát 5,1 tỷ RM tiền thuế, thu ngân sách sau tăng thuế giảm so với thời điểm trước tăng thuế trong khi đó tổng lượng tiêu thụ thuốc lá lại tăng 5% sau khi tăng thuế và 3 nhà sản xuất thuốc lá lớn đã đóng cửa các nhà máy tại quốc gia này.

Hay tại Đức, trong giai đoạn 2002-2005 khi thuế tuyệt đối tăng 48% và thuế tương đối tăng khoảng 8%, người tiêu dùng chuyển sang mua thuốc lá từ các quốc gia khác, lượng tiêu thụ thuốc lá hợp pháp giảm khoảng 34%, và ngân sách Nhà nước bị trì trệ. Còn tại Vương quốc Anh vào năm 2011, quốc gia này đã tăng 30% thuế tuyệt đối dẫn đến thuốc lá lậu tăng và chiếm khoảng 20% thị trường vào năm 2016, gây thất thu thuế khoảng 2,5 tỷ bảng Anh.

Những con số “biết nói” về tác động của thuế đến sự gia tăng thuốc lá lậu

Mô hình phân tích của Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (Bộ Tài chính) tại hội thảo đưa ra kịch bản: sản lượng hợp pháp giảm mạnh, thuốc lá lậu lại tăng lên nhanh chóng khi điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá theo đề xuất hiện nay.

Cụ thể, ở cả 2 phương án tăng thuế của Bộ Tài chính, sản lượng thuốc lá hợp pháp đều giảm mạnh vào năm 2030: thuốc lá hợp pháp giảm 30% ở phương án 1 (tương đương giảm 28 tỷ điếu) và giảm 36% ở phương án 2 (khoảng 31 tỷ điếu) so với năm 2025 trước khi tăng thuế.

Ngược lại, lượng thuốc lá lậu sẽ tăng mạnh ở cả 2 phương án tăng thuế mà Bộ Tài chính đề xuất. Đến năm 2030, thuốc lá lậu có thể sẽ tăng 205% ở phương án 1 (khoảng 22 tỷ điếu) và tăng 230% ở phương án 2 (tương đương 24 tỷ điếu) so với 2025.

Đồng thời, bà Đinh Thị Quỳnh Vân, Chủ tịch PwC Việt Nam đưa ra nhận định: “Việt Nam trải qua rất nhiều cuộc cải cách thuế và đặc biệt thuế tiêu thụ đặc biệt với thuốc lá. Tuy nhiên mức tăng thuế của chúng ta không tăng nhanh như đề xuất lần này của dự thảo”.

Cần thận trọng khi thiết kế chính sách thuế với thuốc lá -0
Theo bà Đinh Thị Quỳnh Vân, Chủ tịch PwC Việt Nam, nếu tăng thuế “sốc” và đột ngột sẽ càng tạo lợi thế cạnh tranh cho thuốc lá lậu, dẫn đến rủi ro cao người tiêu dùng sẽ chuyển sang thuốc lá lậu.

Nếu thuế tiêu thụ đặc biệt thuốc lá tăng quá nhanh theo 2 phương án của Bộ Tài chính, sẽ dẫn đến nhiều tác động tiêu cực. Tại Hội thảo “Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với sản phẩm thuốc lá”, Chủ tịch của PwC Việt Nam đã trình bày kịch bản có thể xảy ra nếu thực hiện các phương án mà Bộ Tài chính đề xuất.

Theo đó, sản lượng thuốc lá hợp pháp có thể sẽ giảm hơn 70% vào năm 2030 so với hiện tại, thuốc lá lậu có thể tăng lên 50 tỷ điếu vào năm 2030, thất thu từ thuốc lá lậu có thể lên đến 40.000 tỷ đồng vào năm 2030 so với mức 5.000- 6.000 tỷ đồng hiện tại. Hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, và rủi ro nhiều doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa, kéo theo việc làm của người lao động tại các nhà máy thuốc lá, nông dân ở các vùng trồng nguyên liệu và các nhà phân phối, nhà bán lẻ chịu tác động tiêu cực.  

Từ những phân tích trên cho thấy, chính sách tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với thuốc lá tại Việt Nam nên được thực hiện từng bước, với mức độ vừa phải, có lộ trình hợp lý và có tính định hướng dài hạn. Từ đó, đạt được mục tiêu của Chính phủ một cách hài hòa, vừa hạn chế tiêu dùng đồng thời đảm bảo sự ổn định trong thu ngân sách Nhà nước, hạn chế sự gia tăng đột biến của thuốc lá lậu và hỗ trợ ngành thuốc lá nội địa chuyển đổi sang cơ cấu sản phẩm có giá bán cao hơn, chất lượng tốt hơn, ít độc hại hơn.

Ngọc My
.
.
.