Bài cuối: Mô hình kinh tế dữ liệu nào phù hợp với Việt Nam?
Kinh tế dữ liệu đang nổi lên như trụ cột phát triển mới của nhiều quốc gia nhưng không tồn tại một công thức chung cho tất cả. Nhiều chuyên gia cho rằng, với bối cảnh đặc thù về thể chế, trình độ công nghệ và yêu cầu bảo đảm an ninh - chủ quyền số, Việt Nam cần lựa chọn một mô hình kinh tế dữ liệu phù hợp, vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo vừa đảm bảo quản trị thống nhất và an toàn số quốc gia.
Việc xác định đúng mô hình không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn là vấn đề chiến lược trong kỷ nguyên số.
Sớm tháo gỡ các “điểm nghẽn”
Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam đang ở giai đoạn đầu hình thành, đặt nền móng cho nền kinh tế dữ liệu, trong đó dữ liệu được xác định là tài nguyên chiến lược, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp vừa tạo nền tảng cho phát triển kinh tế số. Cùng với định hướng đó, những năm gần đây Việt Nam đã đạt nhiều bước tiến quan trọng trong phát triển hạ tầng số, đặt nền móng cho tiến trình chuyển đổi số quốc gia.
Một dấu mốc quan trọng là việc xây dựng và đưa vào vận hành Trung tâm Dữ liệu quốc gia - hạ tầng dữ liệu tin cậy quốc gia, một trong những thành tố quan trọng của Đề án 06, được xem như “trái tim” của hệ thống dữ liệu Việt Nam. Hiện cả nước có gần 40 trung tâm dữ liệu đang hoạt động, tập trung chủ yếu tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, do các tập đoàn lớn như VNPT, Viettel, FPT, CMC đầu tư. Tuy nhiên, phần lớn các trung tâm này vẫn có quy mô và công suất còn hạn chế; chỉ riêng Trung tâm Dữ liệu quốc gia 1 đạt tiêu chuẩn Tier 4 ở giai đoạn thiết kế.
Song song với hạ tầng, Việt Nam đang từng bước xây dựng các nền tảng lõi cho kinh tế dữ liệu như nền tảng chia sẻ, điều phối dữ liệu quốc gia; nền tảng blockchain phục vụ xác thực và truy xuất nguồn gốc; định danh số phi tập trung; hệ thống email và trợ lý ảo quốc gia; trung tâm tính toán hiệu năng cao và sàn giao dịch tài sản số quốc gia.
Ở cấp dữ liệu nền tảng, Việt Nam đã hình thành hơn 340 cơ sở dữ liệu chuyên ngành và các cơ sở dữ liệu quốc gia trọng điểm về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, bảo hiểm, hộ tịch. Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia cũng đã được triển khai từ ngày 1/7/2025 theo Luật Dữ liệu 2024 nhằm tăng cường tích hợp, chia sẻ dữ liệu phục vụ quản lý và điều hành. Cổng dữ liệu quốc gia hiện công bố hơn 10.300 bộ dữ liệu mở; tỷ lệ số hóa dữ liệu của các cơ quan nhà nước đạt khoảng 53%; nhiều bộ, ngành vượt 80%, trong đó 33 địa phương cơ bản hoàn thành số hóa dữ liệu đất đai.
Hệ sinh thái doanh nghiệp dữ liệu cũng đang dần hình thành với khoảng 250 - 270 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ dữ liệu, AI và phân tích dữ liệu. Các tập đoàn lớn đã xây dựng nền tảng và giải pháp dữ liệu, trong khi hệ sinh thái startup còn non trẻ với khoảng 40–50 doanh nghiệp nhận được đầu tư trong giai đoạn 2020 - 2023. Về nhân lực, Việt Nam hiện có khoảng 18.000 - 20.000 chuyên gia trong lĩnh vực khoa học dữ liệu, AI và phân tích dữ liệu; mỗi năm đào tạo thêm khoảng 5.000 - 6.000 sinh viên từ 55 cơ sở giáo dục.
Theo Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu quốc gia, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dữ liệu quốc gia, nếu nhìn vào thực chất, chúng ta mới ở giai đoạn xây nền móng bước đầu của nền kinh tế dữ liệu.
Hiện mới chỉ có Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phát huy vai trò cốt lõi. Việt Nam muốn hình thành và khai thác được tiềm năng của cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia với 4 trụ cột dữ liệu chính là con người, vật phẩm, địa điểm và hoạt động thì phải giải quyết tốt các điểm nghẽn.
Điểm nghẽn thứ nhất là nghịch lý giữa có dữ liệu nhưng thiếu dữ liệu sống động khi chúng ta mới có 12 cơ sở dữ liệu trọng điểm theo Quyết định 02/QĐ-TTg ngày 12/1/2021, nhưng có 8 cơ sở dữ liệu chưa có nền tảng cơ sở dữ liệu chung hoặc mức độ hoàn thiện rất thấp. Với 105 cơ sở dữ liệu được giao tại Quyết định 71/QĐ-TTg của Chính phủ, mặc dù các bộ, ngành đã cam kết sẽ hoàn thành trong năm 2025 tại hai phiên họp liên ngành nhưng thực tế khảo sát cho thấy có 38/105 cơ sở dữ liệu Bộ Công an đánh giá có nguy cơ cao không hoàn thành trong năm 2025.
Điểm nghẽn thứ hai là mâu thuẫn giữa có nền tảng nhưng thiếu hệ sinh thái. VNeID có 67 triệu tài khoản nhưng chưa thực sự trở thành siêu nền tảng, người dân vẫn có thể sử dụng nhiều ứng dụng khác nhau cho từng dịch vụ và chưa có trải nghiệm liền mạch. Chưa có cơ chế đột phá về hoạt động sáng tạo khai thác cho dữ liệu từ Trung tâm Dữ liệu quốc gia để hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp có thể khai thác dữ liệu một cách hợp pháp an toàn, để phát triển sản phẩm đổi mới, nhất là hoạt động khai thác dữ liệu công tư kết hợp. Chương trình vườn ươm tạo dữ liệu quốc gia và một nền tảng công nghiệp phát triển kinh tế dữ liệu khi đã có hạ tầng nhưng vẫn còn sơ khai.
Điểm nghẽn thứ ba là chúng ta chưa xác định được mô hình kinh tế dữ liệu của quốc gia. Trên thế giới hiện nay có ba mô hình chính: Thị trường tự do của Mỹ (doanh nghiệp và hệ sinh thái dữ liệu giữ vai trò chủ đạo, quy mô toàn cầu, đổi mới và thương mại hóa AI nhanh chóng); mô hình Nhà nước điều phối của Trung Quốc; mô hình lợi ích của người dân của EU song Việt Nam mới ở chặng đầu của sự phát triển và việc lựa chọn mô hình kinh tế dữ liệu cho riêng mình cũng đang ở giai đoạn tìm đường.
“Mở khóa” cho kinh tế dữ liệu
Chia sẻ tại hội thảo quốc tế về kinh tế dữ liệu do Bộ Công an vừa tổ chức, các chuyên gia thống nhất nhận định: Dữ liệu không chỉ là nguồn lực mà là “nguồn sống” của nền kinh tế số. Đối với Việt Nam, bài toán không phải chọn sao chép một mô hình có sẵn mà là thiết kế một mô hình phát triển kinh tế dữ liệu phù hợp với điều kiện trong nước để “mở khóa” cho kinh tế dữ liệu.
GS Feng Li, Chủ nhiệm Bộ môn Quản lý Thông tin, Phó Hiệu trưởng phụ trách Nghiên cứu & Đổi mới, Trường Kinh doanh Bayes, Đại học City St Georges, Đại học tổng hợp London (Vương quốc Anh) cho rằng, trọng tâm chiến lược của Việt Nam cần là xây dựng hạ tầng dữ liệu quốc gia vững chắc gồm trung tâm dữ liệu hiện đại, nền tảng số đồng bộ và hệ thống dữ liệu mở minh bạch; đồng thời tạo “sức bật kép” khi kết hợp giá trị công của Nhà nước với đổi mới sáng tạo, từ khu vực tư nhân, gắn với chuyển đổi số toàn diện và đô thị thông minh.
Theo GS Feng Li, cách tiếp cận dữ liệu này giúp Việt Nam tăng tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nền kinh tế tiên tiến và nâng cao năng lực cạnh tranh. Dữ liệu còn là yếu tố then chốt trong bảo đảm chủ quyền số và an ninh thông tin, đồng thời nâng vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Với dân số trẻ, khả năng tiếp cận công nghệ nhanh và vị thế chiến lược trong ASEAN, Việt Nam có cơ hội trở thành trung tâm dữ liệu và AI của khu vực. Đây không chỉ là chiến lược kinh tế mà còn là nền tảng cho phát triển bền vững trong kỷ nguyên dữ liệu và trí tuệ nhân tạo.
Từ kinh nghiệm quốc tế với ba mô hình kinh tế dữ liệu nổi bật hiện nay gồm: Mỹ, nơi lấy thị trường và doanh nghiệp công nghệ dẫn dắt đổi mới; Trung Quốc, nơi Nhà nước giữ vai trò điều phối mạnh, bảo đảm chủ quyền dữ liệu; EU, nơi lấy người dân làm trung tâm, quản lý chặt chẽ để bảo vệ quyền riêng tư, PGS Ali Al-Dulaimi, Trưởng khoa công nghệ và khoa học máy tính, Trường Đại học Anh quốc Việt Nam nhấn mạnh, Việt Nam đang sở hữu những lợi thế hiếm có: Dân số trẻ, tốc độ chuyển đổi số nhanh và không gian chính sách linh hoạt, nền tảng để hình thành một mô hình lai (hybrid) mới, hài hòa giữa định hướng của Nhà nước, sức sáng tạo của khu vực tư nhân và cơ chế bảo vệ người dân. Mô hình này vừa thúc đẩy sáng tạo vừa bảo đảm an toàn, minh bạch và chủ quyền số.
Đồng thời, PGS Ali Al-Dulaimi đề xuất tiếp cận theo chuỗi “Dữ liệu – AI - Giá trị”, trong đó AI đóng vai trò “động cơ” tạo tác động thực tế cho sản xuất, nông nghiệp, dịch vụ công, tài chính, giáo dục và đô thị thông minh. Tầm nhìn là đưa Việt Nam trở thành trung tâm dữ liệu và AI đáng tin cậy của ASEAN vào năm 2030, song song với việc quản trị rủi ro về quyền riêng tư, thiên lệch AI, phụ thuộc nền tảng nước ngoài và tác động môi trường.
Dưới góc độ thể chế và đo lường, PGS James Abdey, Phó Giám đốc Học thuật phụ trách các chương trình quốc tế, Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London (LSE) nhấn mạnh, Việt Nam cần sớm xây dựng khung đo lường kinh tế dữ liệu theo chuẩn quốc tế để “nhìn thấy” đầy đủ giá trị dữ liệu trong GDP, năng suất và thu hút đầu tư. Việc thí điểm đo lường ở các lĩnh vực như y tế, giáo dục, tài chính sẽ tạo minh chứng và cơ sở nhân rộng.
Trong khi đó, GS Trần Ngọc Anh, Đại học Indiana, Chủ tịch Viện Sáng kiến Việt Nam & thành viên Tổ tư vấn Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đề xuất phát triển kinh tế dữ liệu dựa trên ba trụ cột: Hạ tầng số, nhân lực số và thể chế số, cùng mô hình “Vòng xoáy 4T”: Thu thập - Tinh luyện -Triển khai - Tái tạo” để dữ liệu liên tục sinh giá trị mới.
GS Chu Hoàng Long, Trường Chính sách Công Crawford, Đại học Quốc gia Australia (ANU) cũng nhấn mạnh rằng, để xây dựng một nền kinh tế dữ liệu lành mạnh, Việt Nam cần đồng thời đo lường ba yếu tố: Khai thác dữ liệu, cung cấp dữ liệu và môi trường chính sách, kinh doanh. Khai thác dữ liệu giúp nâng cao hiệu quả, năng suất, cá nhân hóa, tự động hóa, đổi mới và quản lý rủi ro. Cung cấp dữ liệu phụ thuộc vào hạ tầng số (băng rộng, 5G, cloud), mức độ chia sẻ dữ liệu mở và khả năng tạo dữ liệu từ khu vực công - tư. Môi trường kinh doanh cần khung pháp lý rõ ràng, nhân lực dữ liệu chất lượng và hệ sinh thái startup năng động.
GS Chu Hoàng Long đề xuất xây dựng chính sách dữ liệu minh bạch, dựa trên đạo đức, với vai trò dẫn dắt của Chính phủ thông qua số hóa dịch vụ công và tăng cường hợp tác công - tư, nhằm biến dữ liệu thành nguồn lực chiến lược thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng bền vững.

Bài 1: Dữ liệu - “Mỏ vàng” mới của nền kinh tế số
Bài 2: Dữ liệu “đúng - đủ - sạch - sống” phục vụ lợi ích quốc gia