"Lão gàn" dựng nhà giữ rừng, nuôi trẻ mồ côi

Thứ Năm, 23/03/2017, 14:12
Khoảng 30 năm trước, người dân bản Prin C, xã rẻo cao A Dơi, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị bảo ông là gàn dở bởi những việc làm khác người. Nhưng giờ đây, bà con bỗng đổi cách gọi đối với ông- là "lão gàn" nhưng một cách trân trọng và cảm phục!


Trong đó có việc "lão gàn" chỉ còn một cái chân lành lặn, đã tự mình dựng xây nên một nếp nhà giữa rừng già thâm u, rồi từ đây mở ngược đường về tới bản, để đưa những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa về nếp nhà của mình chăm nuôi, đến khi khôn lớn thì đứng ra dựng vợ gả chồng cho chúng. Ông là thương binh ¾ Hồ Mơ, người đồng bào dân tộc thiểu số Pa Cô.

Con đường từ bản Prin C dẫn vào vùng rừng già phía Đông cách đó tầm 7 cây số nay không còn cô đơn, thiếu hơi người như cách đây 30 năm về trước. Hai bên đường xanh bạt ngàn cây cao su, bời lời của người dân đã thu hoạch qua mấy mùa rẫy.

Tuy nhiên, con đường nay vẫn còn nhiều ổ voi lắm ổ gà do vẫn còn đường đất, mưa lũ xói lở hàng năm. Nếu như không có người cháu gọi ông Mơ bằng cậu ruột, dẫn đường đưa tôi bằng xe máy với trình độ lái xe siêu hạng, thì chắc từ chiều đến tối mịt tôi vẫn chưa thể vào tới đó được.

Thấy khách lạ, ông khập khiễng cái chân gỗ bước xuống cầu thang nhà sàn, bắt tay chào hỏi niềm nở. Ngôi nhà nhỏ quay mặt về hướng Nam, ông bảo để tránh mưa gió quật vào những tháng mùa đông, nhưng bốn bức tường đều được mở cửa sổ để quan sát, canh giữ những cánh rừng xung quanh.

Tôi hỏi ông Mơ sao lại chọn một thung lũng nhỏ hẹp giữa rừng để sinh sống? Người cựu binh đang ngồi bỗng duỗi cái chân gỗ, bị cụt tới quá đầu gối ra mặt sàn nhà cho khỏi vướng, tay phải cùng hướng với chiếc chân chỉ qua ô cửa sổ ra khoảng rừng cây cổ thụ xanh rì phía trước, trầm ngâm kể lại: "Khoảng thời gian năm 1987, bố thấy cảnh rừng cây ở đây bị chặt phá nát hết. Bố đau lòng nên tìm cách giữ lại chúng. Bố đã nhiều lần vào ra cánh rừng này để đẩy đuổi lâm tặc và tháo gỡ hàng trăm chiếc bẫy thú rừng do bọn chúng đặt bẫy bắt. Nhưng rồi bố thấy sức người có hạn, việc đi về mỗi ngày là không thể lâu dài. Rồi tự nhiên trong đầu bố lúc đó đã nảy ra những câu hỏi: "Hay là mình làm nhà gần rừng để giữ nó? Nhưng làm nhà gần rừng thì làm gì để sinh sống? Mình còn phải nuôi 5 đứa con và bốn đứa khác mồ côi trong bản".

Đang vắt óc suy nghĩ thì bố phát hiện ra chỗ thung lũng này rất thuận lợi cho việc trồng cây lúa, cây rau, do nước từ các khe suối quanh đó đều chảy qua đây quanh năm. Thế là bố mừng như mở cờ trong bụng. Bố lên kế hoạch thực hiện việc dựng nhà trước rồi mở đường sau. Con đường này bố phải mở mất 6 tháng liền mới về tới bản".

Ông Mơ bên cánh rừng xanh tốt, thành quả do ông cùng vợ và các con chăm sóc, bảo vệ 30 năm qua.

- Làm như vậy là làm ngược? Đáng lẽ phải mở từ bản vào rừng mới thuận tiện hơn chứ? - Tôi hỏi ông Hồ Mơ.

- Ngược mà không ngược! - Ông trả lời tôi - Bản làng là chỗ văn minh hơn núi rừng. Lấy cái chỗ văn minh để làm đích đến thì mình mới có động lực, mới có quyết tâm thực hiện đến cùng được. Chứ mình từ bản vào rừng thì rất dễ nản, dễ bỏ cuộc giữa chừng.

Thì ra lý do để ông làm ngược là như vậy! Sau khi dựng nhà, mở đường thông tới bản, ông cùng vợ và các con chuyển toàn bộ cơ ngơi từ đây vào rừng và tiến hành việc khai hoang đất đai ở thung lũng kể trên để phát triển sản xuất nông nghiệp. Khi cây lúa, cây rau đã lên xanh trên ruộng rẫy, vợ chồng và các con ông bắt đầu công cuộc làm cho cánh rừng bị chặt phá tái sinh trở lại.

"Rừng lúc đó chỉ còn lại lác đác những cây nhỏ, những cây lớn đã bị cưa sạch. Cỏ dại, lau lách mọc lên che hết ánh sáng, gốc cây không thể đâm chồi, tái sinh được"- ông kể: "Bố ban đầu dùng rựa, cuốc để phát quang và làm cỏ, nhưng 3 đến 4 con người gập lưng cả ngày cũng chỉ làm được một khoảnh nhỏ. Về sau, bố nghĩ ra cách dùng trâu, bò để làm cỏ thay sức người. Theo đó, mỗi ngày bố rào lại một khoảnh rừng, lùa trâu, bò vào đó ăn cho tới lúc sạch cỏ, thì bố lại lùa chúng sang một khoảnh khác. Cứ thế, sau 5 năm, những cây cổ thụ bị chặt trụi trước đó đã đâm chồi lên xanh mơn mởn trở lại".

"Tuy nhiên, khi cây cối đã lên to lớn, việc giữ chúng khỏi bị lâm tặc chặt trộm hàng ngày còn khó khăn vất vả hơn cả việc làm cho chúng hồi sinh. Bởi vì rừng rộng dài lắm, mình không thể nào quản lý, bảo vệ hết được", ông trầm ngâm cho biết thêm.

- Bao nhiêu hécta vậy bố? - Tôi hỏi ông Hồ Mơ.

- Bố không biết được chính xác, nhưng đi theo chiều dọc, thì từ 7h sáng đến 7h tối mới hết rừng.

- Còn việc nuôi trẻ mồ côi? Bố nghĩ thế nào khi nhận về mình toàn những việc khó?!

- Bố bắt đầu nuôi trẻ mồ côi từ những năm 1980. Thời gian đó, bản làng của bố còn rất nghèo, cái ăn kiếm được phải quăng quật suốt ngày trên nương rẫy, nhiều trường hợp vợ chồng bị cảm nắng, cảm nước, lại không có thuốc men chữa trị kịp thời, đã mất đi rất thương tâm. Ba mẹ chết để lại những đứa con nheo nhóc, tội nghiệp, không nơi nương tựa. Bà con trong bản thương chúng cũng chỉ chia sẻ được bữa củ sắn, bữa bắp ngô.

Bố là thương binh mất đi một chân, việc cuốc cày không được như những người lành lặn, nhưng bù lại bố có tiền lương nhà nước, vợ và các con siêng năng lao động, lại có bụng sáng trong làm ăn nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nên điều kiện kinh tế có phần đỡ hơn so với những gia đình khác. Nhờ đó, bố mạnh dạn cưu mang đùm bọc các cháu. Vợ bố cũng rất thương người, nên dù có khó khăn hơn, mọi việc đều ổn cả. Ông tâm sự.

Ông Mơ bên cửa sổ nhà sàn, dõi mắt quan sát, bảo vệ rừng.

Theo ông Hồ Văn Ngoai, Bí thư Đảng ủy xã A Dơi, từ năm 1980 đến nay, người thương binh ¾ Hồ Mơ đã chăm nuôi cho 17 trẻ mồ côi cha mẹ, trong đó có những trẻ ở các bản làng Lào có bà con với người Việt bên này. Các cháu đều được ông Mơ cho đi học, một số học hành đỗ đạt trở về làm việc tại thôn, xã. Một số sau khi được ông dựng vợ gả chồng, kinh tế gia đình khó khăn, lại được ông tiếp tục giúp đỡ cho trâu, bò để làm ăn.

Gần đây nhất, cháu Hồ Nưa (8 tuổi), Hồ Dừa (4 tuổi), ở trên địa bàn xã, có bố mẹ không may mất do bị sét đánh đang lúc làm đồng, đã được ông đem về nuôi dưỡng chính trong nếp nhà của vợ chồng ông, ở khe Xa Lau giữa bạt ngàn cánh rừng già xanh tốt mà hàng chục năm qua ông đã cùng vợ và các con tình nguyện chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn chúng khỏi bị lâm tặc chặt phá. Cũng trong chính nếp nhà này, các con ông và các cháu mồ côi cha mẹ đã được ông nuôi dạy bằng thứ tình cảm thiêng liêng, bao la của một người cha, nên lớn lên chúng đều đã trở thành những người tử tế, có ích cho gia đình và xã hội.

Trở lại câu chuyện của ông Hồ Mơ nuôi trẻ mồ côi, ông bảo với tôi rằng, việc nuôi những đứa trẻ có hoàn cảnh không may là khó hơn nhiều so với việc nuôi con cái của mình. Vì chúng mất cha mất mẹ, thiếu thốn tình cảm của người thân nên rất dễ bị tổn thương. Khi mình vô tình làm chúng tổn thương, hay việc chăm sóc chúng chưa được chu đáo, tận tình; không tâm sự với chúng như những người bạn để biết và chia sẻ những điều chúng cần, thì chúng rất dễ đi vào con đường sa ngã do cảm giác tủi phận, bất cần, suy nghĩ tiêu cực.

Nói chuyện với khách, nhưng mắt ông vẫn dõi theo thằng bé 4 tuổi. Bỗng ông cất tiếng gọi gần gũi khi thấy thằng bé nom đặt chân xuống đám ruộng nước ở gần sân nhà: "Dừa ơi, Dừa ơi vào đây với bố!" Thằng bé chạy vào, nhưng không dám lại gần vì sợ khách. Ông liền co cái chân gỗ, tay chống xuống chỗ đầu gối bên kia nhớm mình đi ra cửa, ôm thằng bé vào lòng xoa xuýt, nâng niu, vỗ về như một người mẹ. 

Tôi để ý, thằng bé thỉnh thoảng lại nhìn ngược lên mái tóc ông, nó vân vê từng sợi tóc đã chớm bạc của người cha, của người thương binh già mà dường như với nó sẽ không có người nào còn sống trên đời tuyệt vời hơn ông ấy nữa!

Ông Mơ và cháu Hồ Dừa (4 tuổi, mồ côi cha mẹ) được ông quan tâm, chăm sóc.

Chiều muộn, tôi nhờ ông dẫn ra rừng vì muốn "mục sở thị" những cây đại thụ do đôi bàn tay ông cùng vợ và các con đã dày công chăm sóc, bảo vệ chúng hàng chục năm qua. 

Ông chỉ tay vào một cái cây da dẻ sần sùi, to chừng 2 người ôm, bảo cây có chiếc áo bên ngoài xấu xí, nhưng sức sống rất mạnh mẽ, loại này nó mọc, sống tốt trên cả vách đá vôi, đó là cây Sến.Quan sát thấy những cây to lớn như cây Sến khá nhiều, chúng lên tự nhiên, song khá ngay hàng thẳng lối như đã có bàn tay con người trồng trỉa chúng từ trước. 

Dẫn tôi đi chậm rãi dưới tán rừng thâm u ngút ngàn, ông Mơ không quên thỉnh thoảng dõi ánh mắt nhìn xa về phía trước, và nhìn thật kỹ xung quanh dưới những gốc cây để xem có lâm tặc, hay chiếc bẫy thú rừng nào do chúng đặt để tháo gỡ đem về. Tôi chợt thấy trên mặt đất, mặt rừng, dày đặc những vết lõm từ chiếc chân gỗ của ông in xuống. Chúng kiểu như con thú đánh dấu lãnh địa của mình!

Tôi chợt nghiệm ra rằng, 30 năm qua, người thương binh ấy đã khó nhọc khập khiễng cái chân gỗ ấy đi hàng dặm đường rừng mỗi ngày, với quyết tâm không mệt mỏi giành giữ, bảo vệ bằng được sự sống cho rừng. Và, tôi lại hình dung ra rằng, những vết lõm ấy có giá trị như những cái triện đỏ đánh dấu chủ quyền về rừng, cũng là một mệnh lệnh của hành pháp- tuyệt đối không được xâm hại rừng…

Phan Thanh Bình
.
.
.