Đối tượng, điều kiện như thế nào thì được đặc xá?
Ngày 7-11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Đặc xá (sửa đổi).
- Sửa đổi Luật Đặc xá: Chính sách khoan hồng đặc biệt nên điều kiện cũng phải đặc biệt
- Đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật trong Luật Đặc xá (sửa đổi)
Theo báo cáo giải trình, tiếp thu, chính lý dự án Luật của Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội thì Luật Đặc xá (sửa đổi) của Chính phủ trình đã kế thừa Luật Đặc xá hiện hành, quy định 3 thời điểm đặc xá gồm: nhân sự kiện trọng đại của đất nước, nhân ngày lễ lớn của đất nước và trong trường hợp đặc biệt, Uỷ ban Thường vụ của Quốc hội (UBTVQH) đề nghị cho giữ 3 thời điểm đặc xá như Luật hiện hành; không quy định thời điểm, tần suất đặc xá và không liệt kê cụ thể các sự kiện trọng đại của đất nước, mà giao cho Chủ tịch nước căn cứ các quy định của Luật và tình hình của đất nước ở từng thời kỳ để quyết định thời điểm đặc xá phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra.
Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga |
Về đối tượng được đề nghị đặc xá nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước UBTVQH đề nghị chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng, ngoài 2 loại đối tượng được đề nghị đặc xá như quy định của dự thảo Luật thì bổ sung thêm đối tượng là người đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù (người này phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như người đang chấp hành hình phạt tù, đồng thời phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù).
Một số ý kiến đề nghị không đặc xá với những đối tượng phạm vào các tội mà BLHS quy định không được tha tù trước thời hạn có điều kiện, UBTVQH nhận thấy, nhằm tạo động lực và khuyến khích người chấp hành án phạt tù phấn đấu cải tạo tốt, Luật Đặc xá hiện hành quy định người bị kết án về bất kỳ tội phạm nào nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện luật định thì đều được đề nghị xét đặc xá, mà không quy định loại trừ các tội danh cụ thể.
Để bảo đảm đồng bộ với các luật về tư pháp mới được Quốc hội ban hành, đồng thời tạo động lực cho người chấp hành án phấn đấu cải tạo, dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng: đối với một số tội mà BLHS quy định không được tha tù trước thời hạn có điều kiện thì vẫn cho phép đặc xá nhưng điều kiện về thời gian đã chấp hành án để xét đặc xá phải dài hơn so với các tội phạm khác (cụ thể, phải chấp hành ít nhất 1/2 thời gian đối với trường hợp bị phạt tù có thời hạn, ít nhất là 17 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn).
Đồng thời, đối với những trường hợp này, Chủ tịch nước có quyền quyết định không đặc xá trong từng đợt đặc xá cụ thể, phù hợp yêu cầu thực tiễn đất nước đặt ra trong từng thời kỳ. Vì vậy, UBTVQH đề nghị cho giữ như dự thảo Luật đã được chỉnh lý.
Về xét đặc xá với người được hoãn chấp hành hình phạt phạt tù, người đang thi hành án treo, UBTVQH không nhất trí quan điểm này vì những đối tượng này đều đang ở ngoài xã hội, chưa phải vào trại giam để chấp hành án phạt tù. Nếu quy định người được hoãn chấp hành hình phạt tù thuộc đối tượng được đề nghị đặc xá sẽ không đáp ứng các điều kiện về thời gian đã chấp hành án, về ý thức cải tạo... và không bảo đảm công bằng với các đối tượng khác được xét đặc xá nhân sự kiện trọng đại, nhân ngày lễ lớn của đất nước.
Về điều kiện về thời gian đã chấp hành hình phạt tù, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định của Luật Đặc xá hiện hành. Riêng các đối tượng không được tha tù trước thời hạn có điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 66 của BLHS nhưng theo Luật này được đề nghị đặc xá thì phải có thời gian chấp hành hình phạt tù dài hơn để bảo đảm sự phân hóa giữa các đối tượng, cụ thể là đã chấp hành được ít nhất 1/2 thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, ít nhất 17 năm đối với hình phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, cụ thể
Điều các đại biểu quan tâm là việc chấp hành án phí, các khoản tiền phạt nên nhiều ý kiến đề nghị phải thi hành xong tiền phạt và án phí mới được xét đặc xá. Đồng thời, đề nghị không quy định Chủ tịch nước xem xét miễn chấp hành hình phạt tiền, án phí.
Một số ý kiến đề nghị giữ như quy định của Luật Đặc xá hiện hành, chỉ bắt buộc thực hiện với người phạm tội tham nhũng và một số tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định. UBTVQH đề nghị người được đặc xá phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, đã nộp án phí hoặc có quyết định của Tòa án có thẩm quyền miễn chấp hành hình phạt tiền, miễn nộp án phí”.
Về điều kiện về thực hiện nghĩa vụ bồi thường và các nghĩa vụ dân sự khác, Luật Đặc xá hiện hành quy định phải chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và các nghĩa vụ dân sự khác nhưng chỉ áp dụng đối với người phạm tội về tham nhũng và một số tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định.
Dự thảo Luật của Chính phủ trình sửa theo hướng bắt buộc phải chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và các nghĩa vụ khác đối với mọi tội phạm. Quy định như dự thảo Luật của Chính phủ trình là chặt hơn so với Luật hiện hành, làm giảm đi phần nào ý nghĩa của chính sách đặc xá và thu hẹp hơn đối tượng được đặc xá.
Vì vậy, UBTVQH đề nghị cho giữ như quy định của Luật hiện hành, chỉ quy định điều kiện phải thực hiện nghĩa vụ trả lại tài sản, bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ dân sự khác đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm tham nhũng hoặc một số tội phạm khác do Chủ tịch nước quyết định.
Thay mặt cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga đã báo cáo làm rõ thêm một số vấn đề, trong đó, nhấn mạnh đến thẩm quyền của Chủ tịch nước. Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp nhấn mạnh “Bản chất đặc xá là xá tội trong trường hợp đặc biệt, tức là tha bổng do người đứng đầu nhà nước quyết định cho nên đã tha là tha bổng luôn chứ không có quy định thời gian thử thách để sau đó không đáp ứng điều kiện này để bắt lại”.
Về đối tượng đề nghị đặc xá, Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp cho rằng, dự thảo có thêm đối tượng được tạm đình chỉ thi hành án vì đối tượng được tạm đình chỉ, tạm đình chỉ khác với người được hoãn. Tạm đình chỉ người ta có thể vào và đã chấp hành một phần hình phạt tù nhưng do có những điều kiện, lý do sức khỏe, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi và một số lý do khác nên được tạm đình chỉ cũng được xét đặc xá. Nhưng rõ ràng những người này đã có một thời gian chấp hành hình phạt tù cho nên vẫn phải đáp ứng điều kiện như đã được xếp loại tốt và một số điều kiện khác...
Cần có chính sách đủ mạnh trong phát triển chăn nuôi
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 6, chiều 7-11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Quốc hội tiến hành thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Chăn nuôi. Mở đầu phiên thảo luận, Quốc hội đã nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Chăn nuôi... Phát biểu giải trình tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho rằng, Luật Chăn nuôi được xây dựng trong hoàn cảnh có 4 điểm đặc trưng. Thứ nhất, nền nông nghiệp Việt Nam đang chuyển từ chỗ sản xuất để cung cấp trong nước, phục vụ chính cho nhu cầu tiêu dùng, đến giai đoạn hiện nay đòi hỏi sản xuất phần nhiều để tập trung xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Từ đặc điểm, Bộ trưởng cho rằng có rất nhiều vấn đề cần tham chiếu, hòa đồng khi xây dựng các luật. Thứ hai là vấn đề chuyển dịch lao động trong các khu vực kinh tế. Đặc điểm bối cảnh thứ ba được Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đề cập là sự thay đổi trong việc đáp ứng nhu cầu về thực phẩm, an ninh lương thực. “Đến nay với đà tăng trưởng về kinh tế, nhu cầu của 100 triệu dân đòi hỏi phải tạo ra những sản phẩm tốt hơn, chất lượng hơn để gắn không chỉ cho 100 triệu dân mà gắn với một nền kinh tế với ngành du lịch là mũi nhọn”. Bộ trưởng cho rằng, để phát triển du lịch không chỉ cần quan tâm tới vấn đề cảnh quan, văn hóa mà ẩm thực cũng là một yếu tố thu hút. Từ đó, phải khai thác tốt các sản phẩm lợi thế của Việt Nam, trong đó có sản phẩm chăn nuôi. Theo Bộ trưởng, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng với yêu cầu, điều kiện kinh tế khác nhau là yếu tố thứ tư ảnh hưởng đến quá trình xây dựng Luật. Quy luật, nhu cầu phát triển của mỗi vùng, mỗi khu vực có sự khác biệt, đòi hỏi cần có hướng quy định cụ thể về phát triển chăn nuôi ở thị xã, thành phố, từng vùng. |