Tại sao Trung Quốc chưa là cường quốc khoa học?

Thứ Ba, 25/10/2016, 19:33
Chưa đầy một tuần sau khi phóng trạm vũ trụ Thiên Cung 2 vào ngay ngày Trung thu 15-9-2016 (15-8 Âm lịch), Trung Quốc phải thừa nhận trạm Thiên Cung 1 (phóng năm 2011) bị mất kiểm soát và đang lao xuống Trái đất.

Đây không phải là lỗi cá biệt của ngành nghiên cứu không gian Trung Quốc. Khoa học nước này nói chung vẫn còn nhiều vấn đề khiến Trung Quốc không thể vượt lên đẳng cấp ngang bằng Nhật Bản hoặc Mỹ.

Phóng Thiên Cung, khoa học Trung Quốc vẫn chưa "đại nhảy vọt"

Trung Quốc đầu tư rất mạnh vào khoa học không gian. Chỉ trong năm nay, theo Popular Science (20-9-2016), Trung Quốc đã thực hiện 19 vụ phóng thành công, chỉ sau Nga với 26 và cao hơn Mỹ với 18. Tuy nhiên, thành tựu khoa học không gian Trung Quốc không hẳn từ năng lực của họ. Thứ nhất, Trung Quốc dựa vào các cuộc hợp tác với Nga.

Tháng 9-1994, đích thân Chủ tịch Giang Trạch Dân đã sang Nga, đến tận Trung tâm quản lý không gian ở Kaliningrad. Tháng 3-1995, một thỏa thuận Nga-Trung được ký với nội dung chính, Moscow chuyển giao một số kỹ thuật không gian cho Bắc Kinh, trong đó có cả việc huấn luyện phi hành gia Trung Quốc.

Tháng 8-1999, tại Thành phố Ngôi sao, trong một phòng rộng ở tầng hai của tòa nhà Hydrolab, nhóm 20 chuyên gia Trung Quốc đã có mặt để được hướng dẫn bởi Yuri L. Bogoroditsky - Trưởng phòng phát triển kinh tế đối ngoại thuộc Trung tâm vũ trụ Gagarin.

Thứ hai, Trung Quốc liên tục đánh cắp kỹ thuật không gian của Mỹ. Xin nhắc lại, ngày 11-2-2008, Bộ Tư pháp Mỹ đưa ra cáo trạng buộc một cựu kỹ sư gốc Hoa tên Chung Đông Phiên (sống tại California) tội đánh cắp kỹ thuật không gian, đặc biệt thông tin về tàu con thoi, thời còn làm việc cho Boeing.

Khoa học không gian Trung Quốc dựa vào sự hợp tác với Nga và "kỹ thuật ăn cắp" của Mỹ.

Theo cáo trạng, Chung bắt đầu tuồn tài liệu mật cho các công ty không gian Trung Quốc cũng như tình báo nước này kể từ năm 1979, từ hồi còn làm kỹ sư tại Rockwell International - công ty mà Boeing mua lại năm 1996. Chung tiếp tục làm cho Boeing cho đến khi nghỉ hưu vào tháng 3-2003 và vẫn quan hệ với Boeing với tư cách nhà thầu cho đến tháng 9-2006.

Những tài liệu mà Chung cung cấp cho tình báo Trung Quốc - theo qui kết - gồm nhiều thông tin cực kỳ nhạy cảm liên quan đến oanh tạc cơ B-1, vận tải cơ C-17, tên lửa không gian siêu mạnh Delta IV cũng như dàn ăngten đặc biệt dùng cho tàu con thoi.

Một trong những trường hợp điển hình nữa là Hà Triều Huy (Philip Chaohui He), người Mỹ gốc Hoa sống ở Oakland (California). Tháng 5-2011, Hà mua hơn 300 bo mạch dùng cho công nghệ không gian tại công ty Aeroflex (Colorado) - một đơn hàng lớn đến mức nó không thể không bị nghi ngờ, đặc biệt với loại hàng đặc biệt như trên.

Trước đó, đích thân đương sự cùng một đồng phạm Mexico đã đánh lô chip PROM đầu tiên về Trung Quốc bằng cách chuyển từ Mỹ qua Mexico City rồi sang Thượng Hải. Tháng 12-2011, Hà chuẩn bị xuất lô thứ hai, gồm 200 chip SRAM (loại chuyên biệt cho công nghiệp hàng không, được thiết kế để "kháng" phóng xạ không gian, một kỹ thuật mà Trung Quốc vẫn còn chịu thua).

Ngày 11-12, đương sự lái xe đến cảng Long Beach. Bên trong cốp xe là năm thùng giấy niêm phong kỹ, đề "sữa bột trẻ em" (bằng tiếng Hoa)... Tại cảng, "đối tượng" Hà gặp hai người, trong đó có một nhân vật mang thông hành Trung Quốc, đang "đứng trước một con tàu treo cờ Trung Quốc".

Con tàu này thuộc công ty "Chấn Hoa cảng khẩu cơ giới", chi nhánh của Tập đoàn viễn thông nhà nước Trung Quốc, dự kiến nhổ neo ngày 15-12. Mọi việc có vẻ như trót lọt và Hà chỉ chờ thong thả đếm tiền thì bỗng nhiên bốn bề tứ phía xuất hiện những chiếc áo in chữ FBI to tướng!

Tại sao Trung Quốc không thể đi xa?

Việc đầu tư khoa học không gian của Trung Quốc không phải là bằng chứng cho sự phát triển khoa học nói chung. Trung Quốc đổ tiền vào không gian gần như chỉ với mục đích phô trương với sự thiếu vắng tính ứng dụng; và sự tiến bộ ngành không gian Trung Quốc, nếu có, lại "mất cân đối" với sự thiết kế đồng bộ để có thể tạo ra sức mạnh của nền tảng khoa học cần có, nói chung.

Nói cách khác, ngân sách khoa học thường dồn cho vài lĩnh vực đỉnh cao, như không gian; trong khi các ngành khác lại được rót kinh phí hạn chế. Vấn đề, ngoài ra, không chỉ là ngân sách mà còn là chính sách.

Trung Quốc chi khá mạnh cho nghiên cứu và phát triển (R&D), chiếm 1,75% GDP năm 2010; rồi 1,84% năm 2011 (so với 1,1% năm 2002) và có thể lên 2,5% năm 2020. Xét về tỉ lệ R&D thế giới, Trung Quốc chiếm 19,8% năm 2015, chỉ đứng sau Mỹ với 26,4% (R&D Magazine, Winter 2016).

Theo Tân Hoa Xã, Trung Quốc đã qua mặt Mỹ về số lượng bằng sáng chế bắt đầu từ năm 2011, đạt gần 500.000 vào năm 2015, so với 400.000 của Mỹ và gần 300.000 của Nhật Bản. Đây có thể được xem là một "thành tích", bởi vào năm 2006, Trung Quốc chỉ mới có 171.000 bằng sáng chế. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ giá trị (xét về tính ứng dụng lẫn giá trị thương mại) của bằng sáng chế là như thế nào.

"Made in China" bằng chất xám nước ngoài.

Điền Lực Phổ (Tian Lipu), giám đốc SIPO (Cơ quan bản quyền trí tuệ nhà nước Trung Quốc ), phải thừa nhận: "So với bản quyền phát minh tại các nước phát triển, nhiều bản quyền của chúng ta thật ra chỉ là những sửa đổi kỹ thuật nhỏ" (họ Điền nói thêm: "Dù sao, có còn hơn không. Bản quyền chất lượng thấp cũng còn tốt hơn là bắt chước"!).

Tổng quát, chỉ khoảng ¼ bản quyền Trung Quốc là liên quan bằng sáng chế so với gần 90% tại Mỹ. Chất lượng bản quyền Trung Quốc đã thể hiện ở thực tế rằng đa số trong số đó không có giá trị, vì Trung Quốc vẫn phải chi đậm cho việc mua bản quyền nước ngoài.

Năm 2012, Trung Quốc đã đạt kỷ lục "thâm hụt cán cân" phí bản quyền với gần 17 tỉ USD, so với "thặng dư" 82 tỉ USD của Mỹ. Điều đó có nghĩa Trung Quốc chi đến 18 tỉ USD để mua bản quyền nước ngoài trong khi chỉ thu được 1 tỉ USD tiền phí. 

"Sức mạnh sáng tạo" của Trung Quốc được cụ thể hóa ở một nghiên cứu nghiêm túc khác: trong bảng Chỉ số sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index), công bố giữa tháng 8-2016, Trung Quốc xếp hạng 25 (sau cả Singapore, Phần Lan, Đan Mạch…).

Sự yếu kém của đóng góp sáng tạo cho xã hội Trung Quốc còn được chứng minh bằng sự thật rằng Trung Quốc hiện tiếp tục nhập siêu chất bán dẫn. Rõ ràng có một thực tế về tình trạng "made in China" nhưng không phải bằng chất xám Trung Quốc.

Vấn đề là tại sao Trung Quốc vẫn chưa giành uy tín nghiên cứu và khoa học ở thời toàn cầu? Thứ nhất, đó là hệ lụy của chủ trương "đổ khuôn" trong hệ thống giáo dục Trung Quốc, khi người ta, ngay từ cấp tiểu học, đã không hề muốn và có ý định khuyến khích tinh thần phản biện cũng như tư duy độc lập. Học thuộc và lập lại là tất cả những gì được yêu cầu. Họ không thể có một Steve Jobs hay một Albert Einstein.

Cơ hội để một nhân tố tài năng được tự do phát triển và "được lắng nghe" như phương Tây là không nhiều. Và một khi ngay trong "ngôi đền thiêng" giáo dục lại xảy ra nhan nhản nạn đạo văn để tốt nghiệp cũng như để được cấp bằng tiến sĩ… thì chất xám càng có ít cơ hội và "lối thoát" để vươn lên phát triển.

Còn nữa, một mô hình viện nghiên cứu hoạt động độc lập trong một viện đại học như phương Tây, được "xã hội hóa" đúng nghĩa của từ này với sự góp vốn từ các công ty bên ngoài nhằm thúc đẩy hoặc đầu tư một dự án nghiên cứu cụ thể để cuối cùng có thể thương mại hóa nó, đối với Trung Quốc, là một khái niệm xa vời.

Trung Quốc cũng không có những "nhà đầu tư mạo hiểm" biết nhìn thấy, tiên liệu cơ hội và chấp nhận bỏ tiền mua ý tưởng, giúp sáng tạo trở nên có giá trị thương mại thật sự, để sau đó cho ra đời những Apple hoặc Google.

Ngoài ra, việc ăn cắp bản quyền để "đi tắt đón đầu", như một chủ trương mang tính chính sách, đã dẫn đến không chỉ tình trạng phổ biến thói quen ăn cắp lan tràn trong xã hội mà còn làm thui chột dần sự chủ động tư duy sáng tạo.

Hậu quả kéo theo là sự thiếu tự tin rõ rệt của tâm lý xã hội Trung Quốc, thiếu tự tin đến mức phải ăn cắp y đúc phiên bản cửa hàng Apple hay sao chép gần như 100% mẫu xe Rolls-Royce cho thiết kế xe Hồng Kỳ. Cuối cùng, đó còn là hậu quả của tình trạng tham nhũng vô phương cứu vãn. Khó ai có thể biết chính xác những đồng ngân sách R&D rót từ trung ương xuống các địa phương sẽ "đi đâu, về đâu".

Trong một bài viết trên chuyên san Science (Mỹ), hai giáo sư tên tuổi của Trung Quốc - Thi Nhất Công (Yigong Shi - trưởng khoa Khoa học Đại học Thanh Hoa) và Nhiêu Nghị (Yi Rao - trưởng khoa Khoa học Đại học Bắc Kinh) - thừa nhận thực tế rằng, "có một "bí mật" mà ai cũng biết là làm nghiên cứu tử tế (ở Trung Quốc) thì không quan trọng bằng việc "đi lại" với viên chức nhà nước có quyền có thế.

Văn hóa nghiên cứu hiện tại của Trung Quốc chỉ khiến lãng phí nguồn, làm hủ hóa tâm hồn và cản trở sáng tạo" (Science Vol. 329 No. 5996). "Văn hóa nghiên cứu" đó vẫn còn chưa đóng góp nhiều cho Trung Quốc, huống hồ thế giới. Cho đến nay, khoa học Trung Quốc vẫn còn rất "xa lạ" với các giải Nobel khoa học hàng năm.

Mạnh Kim
.
.
.