Sự thức tỉnh vĩ đại

Thứ Ba, 20/06/2017, 16:44
Hãy điểm qua toàn bộ lịch sử của nhân loại. Hóa ra nó nghèo nàn hơn chúng ta tưởng rất nhiều. 

TS. Ngô Tự Lập sinh năm 1962 tại Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học Hàng hải (Liên Xô, 1986), ông làm thuyển trưởng một tàu đổ bộ trước khi chuyển về Tòa án Quân sự Trung ương và học Đại học Luật Hà Nội.

Ông nhận bằng thạc sĩ văn chương tại École Normale Superieure de Fontenay/St. Cloud (Pháp, 1996) và tiến sĩ ngôn ngữ và văn chương Anh tại Illinois State University (Hoa Kỳ, 2006). Bắt đầu sáng tác năm 1989, Ngô Tự Lập làm thơ, viết truyện ngắn, tiểu luận, sáng tác ca khúc và cũng là một dịch giả tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh.

Ông là tác giả và dịch giả của khoảng 20 đầu sách. Tác phẩm của Ngô Tự Lập được dịch và công bố tại nhiều nước như Hoa Kỳ, Bỉ, Pháp, Ấn Độ, Thụy Điển, Canada, Trung Quốc, Thái Lan, CH Séc... Tập thơ song ngữ Anh-Việt của Ngô Tự Lập, "Black Stars" (Milkweed, USA, 2013), do Martha Collins và tác giả dịch, được đề cử giải PEN 2014 cho hạng mục thơ dịch (Poetry in Translation).

Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và hiện nay là Viện trưởng Viện Quốc tế Pháp ngữ.

Hàng triệu năm đã trôi qua kể từ khi những con vượn người nổi tiếng của Darwin bắt đầu tập nói, tập đi bằng hai chân và dấy lên trong bộ não đang ngày một lớn của nó tham vọng trở thành chúa tể thiên nhiên, hàng vạn năm đã trôi qua kể từ khi con người phát minh ra tình yêu, chiến tranh và nghệ thuật. 

Thế mà những thay đổi chỉ bắt đầu diễn ra cách đây không quá 10.000 năm, còn những thay đổi lớn - không quá 5-6 ngàn năm. Có nghĩa là hàng triệu năm trước đó gần như để trắng! 

Trong bộ sách từng được hàng ngàn trí thức Việt Nam chuyền tay nhau thập niên 1990, Alvin Tofler đã mô tả điều đó bằng cách chia 50.000 năm sau cùng của lịch sử nhân loại thành 800 quãng đời chừng 62 năm một và nhận xét: "Chỉ trong khoảng 70 quãng đời sau cùng mới có thể thông tin từ quãng đời này đến quãng đời khác nhờ chữ viết. Chỉ trong 6 quãng đời sau cùng người ta mới thấy chữ in. Chỉ trong 4 quãng đời sau cùng mới có thể đo chính xác thời gian. Chỉ trong 2 quãng đời sau cùng mới có động cơ điện. Hầu hết hàng hóa chúng ta dùng hàng ngày hiện nay được phát triển trong quãng đời thứ 800 chưa kết thúc".

Hubert Reeves, Yves Coppens, Joel de Rosnay và
Dominique Simonnet.

Bạn thử đặt câu hỏi, vì sao khoảng trống trong lịch sử kéo dài đến vậy? Phải chăng là do hạn chế về mặt sinh học, hay cụ thể hơn, của bộ não người trong quá khứ?

Nhưng vấn đề chưa dừng ở chỗ đó. Xem xét kỹ hơn quãng thời gian gần đây nhất của lịch sử ta thấy phương Đông đạt tới trình độ văn minh đáng kinh ngạc cách đây khoảng 5-6 ngàn năm nhưng sau đó đã giậm chân tại chỗ và chỉ mới lại sực tỉnh vào những năm cuối cùng của thế kỷ XX. 

Trong khi đó lịch sử phương Tây cổ đại bắt đầu muộn hơn nhiều, 3000-4000 năm trước, nhưng đã tiến bộ vượt bậc và bỏ xa các nước phương Đông, đặc biệt là trong khoảng 4-5 thế kỷ gần đây. Bạn giải thích ra sao về điều đó?

Trước hết, chúng ta phải loại bỏ những lý do sinh học vì những nghiên cứu khoa học cho thấy từ khoảng vài vạn năm trở lại đây con người thực tế không có biến đổi gì đáng kể về sinh học. 

Những công trình kiến trúc, những tác phẩm triết học cổ chứng minh rằng trình độ tư duy trừu tượng của con người cách đây 5-6 ngàn năm đã rất cao và thậm chí trong nhiều trường hợp còn vượt qua cả hiểu biết của khoa học hiện đại. Hơn nữa, lập luận đó cũng không thể giải thích sự thăng trầm của văn minh phương Đông và phương Tây mà ta vừa nói ở trên.

Vậy gốc rễ của vấn đề nằm ở đâu? Theo chúng tôi, sự trưởng thành và sau đó là sự phát triển của xã hội loài người gắn liền, hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào mức độ thức tỉnh của con người đối với quyền tư hữu, một sự thức tỉnh đầy tính ích kỷ và mâu thuẫn.

Theo lối suy nghĩ dựa trên hệ thống quan niệm lưỡng phân chúng ta thường cho rằng công hữu được sinh ra như là một cái gì đó trái ngược hoặc là cái cân bằng của tư hữu. 

Thực ra, công hữu, với tư cách là hình thức quan hệ phổ biến giữa con người và vật chất, đã ra đời trước, mặc dù công hữu và tư hữu, hoặc là mầm mống của chúng, đã tồn tại song song trong đời sống bộ lạc nguyên thủy, và trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại sau đó, với vai trò chủ đạo khi thuộc hình thức này khi thuộc về hình thức kia. 

Trong đời sống bộ lạc nguyên thủy mọi thứ đều là của chung, kể cả quan hệ giới tính, nhưng con người cũng đã có quyền tư hữu đối với một vài vật dụng như đồ trang sức hay một vài con thú nhỏ nào đó.

Trong một xã hội cào bằng một cách ngây thơ và đơn giản như xã hội công xã nguyên thủy, thật khó tìm thấy một kích thích mang tính xã hội nào. Dĩ nhiên, ngay từ khi đó, những nhu cầu tự nhiên đã đòi hỏi cải tiến những công cụ thô sơ để đảm bảo cho đời sống cộng đồng. 

Nhưng mọi người đều có quyền như nhau thì cũng có nghĩa là thiếu-nghĩa-vụ như nhau, ít nhất về việc cải tiến công cụ. Việc cải tiến công cụ, vì thế, nói chung được tiến hành do công sức của rất nhiều thế hệ và không thể diễn ra nhanh chóng. Trên thực tế chúng ta thấy rằng thời kỳ công xã nguyên thủy kéo dài trong hàng chục vạn năm.

Ý thức về tư hữu xuất hiện đã trở thành tác nhân kích thích mang tính xã hội lớn lao đối với sự phát triển. "Sự thức tỉnh vĩ đại" - Chúng tôi không tìm thấy từ nào thích hợp hơn để diễn tả một cột mốc quan trọng bậc nhất ấy trong lịch sử nhận thức của nhân loại. 

Diễn ra cách đây vào khoảng 5-10 ngàn năm tùy thuộc vào khu vực trên thế giới, sự thức tỉnh ấy lập tức khiến cho xã hội thay đổi đến mức không còn nhận ra nổi. Nhưng điều đó đã diễn ra như thế nào? 

Đầu tiên là vua chúa - thực ra là những thủ lĩnh bộ lạc - rồi đến một số thành viên nhận ra và có khả năng thu lợi cho cá nhân. Họ bắt đầu khai thác rồi dần dần có ý thức duy trì và tăng cường khả năng ấy. Chắc chắn ban đầu những hành động đó bị những thành viên khác chống lại, nhưng giống như một thứ dịch bệnh, nó lan truyền và không ngừng tàn phá cái thân thể đã già nua hàng vạn năm của chế độ công xã nguyên thủy. 

Bây giờ thì tất cả mọi thành viên của xã hội đều đã nằm trong vòng ảnh hưởng của đòn bẩy kích thích kinh tế. Một số người giàu lên nhanh chóng nhờ tài năng, nhờ may mắn hoặc những thủ đoạn. 

Ngoài việc cải tiến công cụ, họ bắt đầu tìm cách thay đổi cách tổ chức sản xuất để làm ra nhiều của cải hơn và thu lợi nhiều hơn. Sức lao động của tù binh trở nên quý giá và những cuộc chiến tranh đã nổ ra không chỉ nhằm tranh cướp của cải mà còn nhằm bắt thêm tù binh. 

Sau cùng người ta nghĩ ra cách thuê lao động để tổ chức kinh doanh kiếm lời. Thế là lần đầu tiên không chỉ có vua chúa mà cả thường dân cũng có thể bóc lột người khác. Xã hội đã bị phân chia thành các giai cấp. Đó là một quá trình giản lược, thậm chí quá giản lược về những gì đã diễn ra mà chúng ta không thể biết chi tiết. Tuy nhiên, một quá trình có nhiều nét giống như thế có thể được quan sát thấy ở Liên Xô cũ và các nước XHCN Đông Âu sau khi khối này sụp đổ.

Việc phân chia xã hội thành giai cấp càng thúc đẩy hơn nữa các nhân tố kích thích kinh tế. Vì mục đích bóc lột, họ càng ra sức cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện quá trình sản xuất và quản lý sản xuất... Bắt đầu một quá trình gia tốc về phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, những gì chúng ta đã được chứng kiến trong vòng vài ngàn năm ngắn ngủi gần đây.

Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập trên đây, sự thức tỉnh đã diễn ra không đồng thời ở mọi nơi trên thế giới và với mức độ triệt để cũng không giống nhau. 

Ở phương Đông sự thức tỉnh diễn ra sớm hơn, có lẽ khoảng 6.000 năm trước hoặc trước nữa. Điều này đã cho phép xã hội phương Đông đạt được những thành tựu vượt bậc so với phương Tây. Tuy nhiên, do sự thức tỉnh ở khu vực này mang tính chất nửa vời, biểu hiện ở sự duy trì công  hữu về ruộng đất, thứ tư liệu sản xuất quan trọng nhất, cho đến tận thế kỷ XIX, vì thế phương Đông đã không thể đi nhanh được. Ngược lại, sự thức tỉnh diễn ra ở phương Tây muộn hơn nhiều, nhưng lại triệt để hơn.    

Ở phương Tây ngay từ thời cổ đại ruộng đất đã dựa trên cơ sở tư hữu. Sở hữu tư nhân về ruộng đất đã thúc đẩy việc tăng năng suất, cải tiến công cụ, đẩy mạnh sự phân công lao động, và từ đó là trao đổi, thương mại. Tất cả những điều đó cuối cùng làm phân chia giai cấp ngày càng sâu sắc và thúc đẩy sự ra đời của CNTB. Vì thế phương Tây đã đi nhanh hơn và cục diện thế giới từ vài thế kỷ trở lại đây nghiêng hẳn về phương Tây. 

Tuy vậy, trong thế kỷ XX đã xuất hiện những nhân tố mới.  Phương Đông, khởi đầu là Nhật Bản, bắt đầu nhận thấy thiếu sót trong nhận thức của mình. Và lần thức tỉnh thứ hai này đã đem lại cho châu Á một làn sóng thứ hai của sự phát triển.

Nói như thế, có cảm tưởng rằng chúng tôi ca tụng thái quá hoặc một chiều vai trò của tư hữu đối với nhân loại? Không, hoàn toàn không có gì như thế cả. Có điều, cũng giống như Adam Smith khuyên chúng ta khi ăn chiếc bánh mì ngon hãy biết ơn sự ích kỷ của ông thợ bánh, đây là một trong những paradox lớn của nhân loại. 

Chẳng cần nhắc lại những gì xấu xa mà chế độ tư hữu đã đem tới - việc này Marx đã thực một cách tuyệt vời. Gần như đồng thời với sự ra đời của nền kinh tế tự do, con người nhận ra mặt trái của nó. 

Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, những mặt tiêu cực càng bộc lộ trầm trọng hơn: khủng hoảng, lãng phí, nạn thất nghiệp... Thế nhưng cũng chính Marx đã nói rằng chúng ta cũng không thể phủ nhận công lao của nó. Một câu hỏi đặt ra và làm đau đầu những người lãnh đạo quốc gia từ hàng ngàn năm nay là làm thế nào để hạn chế những mặt tiêu cực của nó?

Ngô Tự Lập
.
.
.