Lính Mỹ toàn cảnh
Ở Mỹ, việc đi lính theo truyền thống, nhìn từ một góc độ, được coi như một nghĩa vụ ái quốc, nhưng nhìn từ góc độ khác, lại như một phần của thị trường lao động. Trong số 300 triệu người Mỹ hiện nay, có khoảng gần 26 triệu người đã hoặc đang làm lính.
Các lực lượng vũ trang Mỹ thường được chia thành 5 quân chủng, binh chủng: lính thuỷ đánh bộ (US Marine Corps), lục quân (US Army), không quân (US Air Force), hải quân (US Navy) và lực lượng bảo vệ bờ biển (US Coast Guard). Trong thời bình, lực lượng bảo vệ bờ biển nằm dưới quyền điều hành của Bộ An ninh Nội địa, còn trong thời chiến thuộc Bộ Quốc phòng.
Tổng số quân của các lực lượng vũ trang Mỹ hiện ở mức 1,4 triệu người, trong đó 487 nghìn phục vụ trong lục quân; 385 nghìn - trong hải quân; 368 nghìn - trong không quân và 174 nghìn - trong lực lượng lính thủy đánh bộ…
Ngoài ra, tại Mỹ còn có các đơn vị thuộc lực lượng Cận vệ Quốc gia (National Guard), có nhiệm vụ hỗ trợ chính quyền các địa phương trong những tình huống khẩn cấp và khi cần thiết, phải hỗ trợ cho các hoạt động của các lực lượng vũ trang Mỹ. Lực lượng Cận vệ Quốc gia được thành lập trong thời kỳ đấu tranh giành nền độc lập - đó thoạt tiên là những đơn vị dân quân, hỗ trợ cho quân đội chính quy. Hiện nay có tới 92% số người Mỹ đang "thử lửa" trong các đơn vị Cận vệ Quốc gia là những người không chuyên nghiệp. Trong thành phần lực lượng Cận vệ Quốc gia có các đơn vị lục quân và các đơn vị không quân. Tổng số quân của lực lượng Cận vệ Quốc gia là gần 700 nghìn người. Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, Mỹ không có lực lượng biên phòng.
Việc đi lính ở Mỹ được thực hiện trên cơ sở chuyên nghiệp. Những yêu cầu chính yếu đối với những ai muốn trở thành lính Mỹ là: có quốc tịch Mỹ, hoặc nếu là công dân của các nước khác thì phải có giấy cho phép cư trú thường xuyên ở Mỹ; ở độ tuổi từ 17 tới 34; sức khoẻ tốt và có đủ phong độ thể lực; những phẩm chất đạo đức thoả đáng; trình độ học vấn không dưới cấp trung học phổ thông.
Thế hệ lính Mỹ đương đại có những đặc điểm khác hẳn so với những ai từng mang quân phục Mỹ cách đây ba thập niên. Những thay đổi này diễn ra nhờ việc thành lập một quân đội chuyên nghiệp, hoàn toàn từ những người tình nguyện đi lính, có học vấn cao hơn so với các lực lượng vũ trang Mỹ thời thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự: hiện có nhiều người cha truyền con nối làm lính, có đông phụ nữ hơn và ít người da trắng hơn.
Các lực lượng vũ trang Mỹ được thành lập vào cuối thế kỷ XVIII trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập khỏi ách thống trị của đế chế Anh. Khi đó, cơ sở của nó là các dân quân và thành viên các cơ quan cảnh sát địa phương. Khi đó, đại đa số các nhà lãnh đạo của Hợp chúng quốc tương lai đều tin chắc rằng, chính những công dân có vũ trang, chứ không phải một quân đội chuyên nghiệp, mới có thể đảm bảo an ninh một cách tối đa cho đất nước (hình mẫu được chọn là nền cộng hòa La Mã). Tuy nhiên, vị Tổng tư lệnh quân đội của các vùng thuộc địa Bắc Mỹ, và cũng là vị Tổng thống tương lai đầu tiên của Hoa Kỳ George Washington lại ủng hộ ý tưởng xây dựng một quân đội thường xuyên, chuyên nghiệp và ông đã đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên, năm 1783, sau khi đánh bại thực dân Anh giành được nền độc lập, Quốc hội Hoa Kỳ lại giải tán quân đội và chỉ để lại 80 người lính cùng vài chục sĩ quan để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ kho tàng. Truyền thống đó đã được duy trì trong hai thế kỷ tiếp theo: nước Mỹ đã chỉ có một quân đội thường trực không đông và khi cần thiết (như bắt đầu chiến tranh chẳng hạn), lập tức sẽ có những người tình nguyện đi lính (thường đó là những người tự trang bị vũ khí cho mình), hoặc cũng có khi sẽ bắt buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự. Sau khi hết chiến sự, các lực lượng vũ trang lại giảm quân số và quá trình cắt giảm này thường diễn ra rất nhanh.
Theo tính toán của Trung tâm Nghiên cứu Population Reference Bureau, trong phần lớn lịch sử nước Mỹ, chỉ có hơn 1% số đàn ông trong độ tuổi trưởng thành ở Mỹ từng phục vụ trong các lực lượng vũ trang. Trong giai đoạn các cuộc xung đột vũ trang ở thế kỷ XIX, tỉ lệ này đã tăng lên khoảng 1,5-2%. Tỉ lệ kỷ lục (3%) đã đạt được trong giai đoạn nội chiến (những năm từ 1861 tới 1865): khi ấy, đã có hơn 1 triệu người mặc áo lính. Sau đó, các lực lượng vũ trang Mỹ lại bị cắt giảm. Tỉ lệ 3% lại được ghi nhận lần nữa trong chiến tranh thế giới thứ nhất, khi các lực lượng vũ trang Mỹ đã tăng quân số lên tới 3 triệu người. Khi đó, nòng cốt quân đội Mỹ vẫn là những người tình nguyện cộng vào một số lượng không lớn những người bị gọi đi thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Thể thức này đã được duy trì gần như không thay đổi cho tới chiến tranh thế giới thứ hai. Khi đó, các lực lượng vũ trang Mỹ đã được nhận gần 16 triệu người, trong đó có gần 200 nghìn người là phụ nữ. Đại đa số đàn ông (10,1 triệu) là những người bị gọi đi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Kết quả là trong các lực lượng vũ trang Mỹ ở giai đoạn đó có tới 12% số người lớn ở Mỹ phục vụ.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai cũng đã diễn ra quá trình giảm quân rất nhanh chóng. Trong chiến tranh, lục quân Mỹ đã lập ra 91 sư đoàn: 22 sư đoàn chiến đấu ở khu vực Thái Bình Dương; 15 sư đoàn ở Địa Trung Hải; 61 sư đoàn ở châu Âu (tổng số các sư đoàn này lớn hơn 91 vì một số sư đoàn đã bị chuyển từ khu vực chiến sự này sang khu vực chiến sự khác). Tới tháng 6/1946, 74 sư đoàn đã bị giải tán hoàn toàn và trong lục quân chỉ còn lại 17 sư đoàn, trong đó có 6 sư đoàn đóng quân ở châu Âu. Chính trong thời điểm đó đã bắt đầu cuộc chiến tranh lạnh và khả năng xảy ra đụng độ vũ trang giữa
Làn sóng gia tăng số người đi lính ở Mỹ đã xảy ra sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ (khi đó có khoảng 2,2% số người lớn ở Mỹ phải mặc áo lính) và 1,8% số người trong thời gian Washington đổ quân vào chiến trường Việt Nam. Năm 1973, sau khi Hiệp định
Chính vào năm 1973, Lầu Năm Góc mới cảm thấy mình ở trong một vai trò mới: nó đã trở thành đối thủ cạnh tranh với các công ty tư nhân trong cuộc chạy đua giành giật nhân lực. Chính ở thời điểm này đã thông qua một quyết định mà về sau, đã xác lập tương lai cho các lực lượng vũ trang Mỹ ở hai thập niên tiếp theo. Theo đó, các lực lượng vũ trang Mỹ ngay cả ở thời bình cũng phải đông quân và mức quân số được xác định là gần 2 triệu người, tức là khoảng 1% số dân trong độ tuổi làm việc. Bộ Quốc phòng Mỹ nhờ thế đã trở thành người thuê mướn nhân công lớn nhất ở Mỹ. Hiện nay, trong các lực lượng vũ trang Mỹ có khoảng gần 1,4 triệu người và 1,4 triệu quân nhân này phải có mức lương để chu cấp cho khoảng 1,9 triệu thành viên trong gia đình của họ.--PageBreak--
Trước khi bùng nổ cuộc chiến tranh ở Iraq, ba phần tư số quân nhân Mỹ thường xuyên đồn trú trên lãnh thổ Mỹ, một phần tư còn lại thực hiện nghĩa vụ quân sự tại các quốc gia hải ngoại. Khả năng phải thực hiện nghĩa vụ quân sự ở nước ngoài cao nhất ở hải quân: Trong thời bình, trên lãnh thổ Mỹ có khoảng 83% số binh lính và sĩ quan lục quân và không quân, 80% số lính thuỷ đánh bộ và 58% số binh lính và sĩ quan hải quân đồn trú. Trong bất luận trường hợp nào, Mỹ hiện nay có lực lượng quân nhân đồn trú ở nước ngoài đông nhất thế giới. Điều này thích ứng với quan điểm quân sự mà theo đó, các lực lượng vũ trang Mỹ là quân viễn chinh ở mức độ cao để bảo vệ quyền lợi đất nước tại hải ngoại là chính chứ không chỉ ở trên chính lãnh thổ nước mình.
Trên lãnh thổ My,ä các lực lượng vũ trang được phân chia khu vực đồn trú rất không đều. Những nhóm quân đông nhất được đặt ở các bang
Sự tồn tại của các căn cứ quân sự Mỹ đã tác động không nhỏ đến tình hình kinh tế địa phương. Tại một số đô thị không lớn ở Mỹ có khoảng 15-20% số người trong độ tuổi lao động làm việc cho Lầu Năm Góc. Một nghiên cứu do Trường Đại học Tổng hợp Maryland tiến hành năm 2004 cho thấy, ở những địa phương như thế chịu tác động tiêu cực nhất là phụ nữ: thứ nhất, họ khó tìm được công việc thích hợp với chuyên môn của mình hơn; thứ hai, họ kiếm được ít tiền hơn so với những đại diện của phái yếu khác làm những công việc tương tự ở những đô thị bình thường, không có căn cứ quân sự.
Có một điểm đặc biệt nữa của các lực lượng vũ trang Mỹ: các quân nhân cùng gia đình của họ hay phải dịch chuyển nhiều hơn so với những người làm các ngành nghề khác. Trong giai đoạn từ năm 2000 tới năm 2001 đã có tới 37% số quân nhân Mỹ phải thay đổi nơi ở.
Mỗi năm, các lực lượng vũ trang Mỹ nhận vào làm việc khoảng gần 200 nghìn lính và khoảng 15-20 nghìn sĩ quan. Chỉ có khoảng 15% số sĩ quan Mỹ đã tốt nghiệp ba học đường quân sự có ở Mỹ: Học viện Quân sự Lục quân Hoa Kỳ ở West Point, Học viện Không quân ở Colorado Springs và Học viện Hải quân ở Annapolis (một phần số học viện tốt nghiệp tại đây có thể chuyển sang phục vụ trong lực lượng lính thuỷ đánh bộ). Tất cả các sĩ quan, đã tốt nghiệp các học đường dân sự, có bằng cử nhân, thường được cho đi học một lớp đào tạo quân sự ngắn hạn tại các trường sĩ quan đặc biệt.
Khi gia nhập quân đội, người Mỹ thường phải ký một hợp đồng, trong đó có ghi thời hạn phục vụ sẽ kéo dài từ 2 tới 6 năm, cộng thêm vài năm ở trong lực lượng dự nhiệm. Sau khi kết thúc thời hạn chính thức, phần lớn các quân nhân Mỹ lại ký tiếp một hợp đồng phục vụ trong các lực lượng vũ trang. Chung cuộc, thời gian làm việc cho quân đội thường ở mức 10 năm. Thực tế này được khích lệ vì nhờ thế, các lực lượng vũ trang sẽ liên tục được nhận "dòng máu mới" và khó xảy ra hiện tượng có quá nhiều quân nhân với quân hàm cao.
Lương hưu thường chỉ được dành cho những quân nhân nào đã có thời gian phục vụ từ 20 năm trở lên. Theo số liệu của Ủy ban cựu chiến binh Mỹ, năm 2000 tại Mỹ đã có gần 25,2 triệu cựu chiến binh Mỹ, từng tham gia chiến sự. Trong số này có khoảng gần 5,7 triệu cựu chiến binh từ thời chiến tranh thế giới thứ hai
