Đến hẹn lại lên

Chủ Nhật, 21/05/2023, 07:22

Việc lãnh đạo Quốc hội thuộc đảng Cộng hòa (Mỹ) ngày 19/5 (giờ địa phương) đã tạm dừng thảo luận trần nợ công với phe Dân chủ do hai bên chưa tìm được tiếng nói chung trong một số vấn đề đã khiến hai bên khó có thể đạt được một thỏa thuận cho vấn đề trần nợ công vào cuối tuần này như dự kiến.

Phát biểu ngay sau khi các nhà đàm phán do bản thân lựa chọn đột ngột rời khỏi cuộc gặp với các quan chức Nhà Trắng, Chủ tịch Hạ viện thuộc phe Cộng hòa Kevin McCarthy tuyên bố: “Chúng tôi cần có những chuyển động từ Nhà Trắng và chúng tôi không thấy bất kỳ động thái nào… Vì vậy, chúng tôi phải buộc tạm ngừng (đàm phán)”.

my_vo_no_hill.jpg -0
Vỡ nợ do không đạt thỏa thuận về trần nợ công sẽ gây ra hệ quả xấu đối với kinh tế nước Mỹ.

Có động thái tương tự, hạ nghị sĩ Garret Graves, người đứng đầu nhóm đàm phán của phe Cộng hòa tại Hạ viện Mỹ, đã rời cuộc họp và khẳng định tiến trình thương lượng đã diễn ra một cách “không có hiệu quả”. Trong khi đó, Nhà Trắng cùng ngày thừa nhận nhiều bất đồng lớn vẫn tồn tại giữa các nghị sĩ của đảng Cộng hòa với nhóm đàm phán của Tổng thống Mỹ Joe Biden trong quá trình thương lượng về việc nâng trần nợ công nhằm tránh cho nền kinh tế lớn nhất thế giới khỏi nguy cơ vỡ nợ “thảm khốc”.

Tuyên bố của Nhà Trắng dẫn lời một quan chức cấp cao trong chính quyền Mỹ khẳng định: “Hiện tồn tại những bất đồng thực sự giữa các bên về những vấn đề ngân sách và tiến trình đàm phán sẽ phải đối mặt với nhiều chông gai… Nhóm (đàm phán) của Tổng thống đang nỗ lực hướng tới một giải pháp có thể chấp nhận được đối với lưỡng đảng, để có thể được Hạ viện và Thượng viện thông qua”.

Việc Nhà Trắng và đảng Cộng hòa chưa tìm được tiếng nói chung để có thể sớm đạt được thỏa thuận về trần nợ công đang đẩy nước Mỹ ngày càng tới gần bờ vực vỡ nợ. Vỡ nợ do không đạt thỏa thuận về trần nợ công sẽ gây ra hệ quả xấu đối với kinh tế xứ sở cờ hoa.

Báo cáo của Hội đồng Cố vấn Kinh tế Nhà Trắng (CEA) nhận định, kịch bản vỡ nợ ngắn hạn sẽ khiến tỉ lệ thất nghiệp tăng thêm 0,3%, GDP giảm 0,6%. Còn kịch bản vỡ nợ kéo dài, mức tổn thất sẽ lên tới thêm 5% tỉ lệ thất nghiệp, kinh tế suy giảm 6,1%. Vỡ nợ cũng sẽ kích hoạt làn sóng tăng lợi suất trái phiếu, gây đổ vỡ trên các thị trường tài chính Mỹ và nền kinh tế thực ở Mỹ, ảnh hưởng đến phạm vi toàn cầu.

Trong khi đó, phân tích của tờ Washington Post cũng chỉ ra 7 hệ lụy nếu Mỹ vỡ nợ: Thị trường chứng khoán sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên, với nguy cơ lao dốc mạnh, giá trị cổ phiếu có thể mất 20%; kinh tế suy thoái đột ngột, khi chính quyền không thể thanh toán các khoản chi tiêu liên bang thường xuyên; các chương trình an sinh xã hội, bảo hiểm sức khỏe bị đóng băng; chi phí vay của Mỹ tăng cao do trái phiếu kho bạc Mỹ mất giá trị, giảm lòng tin đối với giới đầu tư; kinh tế toàn cầu chịu ảnh hưởng tiêu cực và cuối cùng là suy yếu của đồng USD và uy tín của Mỹ.

Về phần mình, ông Andrew Hunter, chuyên gia kinh tế Mỹ tại Capital Economics, cho biết, nếu Mỹ vỡ nợ, chi phí đi vay ở Mỹ sẽ tăng đột biến, từ đó sẽ gây ra sự gia tăng tương ứng về chi phí đi vay trên toàn thế giới. Nợ của chính phủ Mỹ về cơ bản được coi là tài sản an toàn nhất trong hệ thống tài chính.

Nếu Mỹ vỡ nợ, mọi tài sản an toàn bỗng nhiên kém an toàn hơn rất nhiều so với trước đây. Việc vỡ nợ gần như chắc chắn sẽ đẩy Mỹ vào suy thoái, với tỷ lệ thất nghiệp cao. Hiện vẫn chưa rõ các nhà đầu tư sẽ nhìn nhận một vụ vỡ nợ do trần nợ như thế nào, bởi đây là vấn đề hoàn toàn do con người tạo ra.

Sự khác biệt lớn giữa vỡ nợ do trần nợ ở Mỹ so với vỡ nợ ở Argentina – quốc gia từng vỡ nợ nhiều lần trong lịch sử, về cơ bản là do sự lựa chọn chứ không phải do hoàn cảnh kinh tế. Không ai cho rằng, nước Mỹ không thể tiếp tục trả các khoản nợ của mình, nhưng chính phủ Mỹ bị ràng buộc bởi luật pháp. Theo chuyên gia Andrew Hunter, trường hợp này tạo ra một loại rủi ro vỡ nợ nhân tạo.

Trước đây, nước Mỹ thậm chí còn tiến gần đến hạn chót hơn. Trở lại năm 2011, thỏa thuận đã được thông qua vào đúng ngày chính phủ hết tiền. Năm 2013, thỏa thuận cũng chỉ đạt được vào thời điểm sát thời hạn chót. Rủi ro lần này cao hơn. Năm 2011, nợ liên bang là 65,8% GDP của Mỹ, còn hiện nay là 98%.

Lãi suất cũng cao hơn nhiều. Cả hai yếu tố này cộng lại có nghĩa là Chính phủ phải đối mặt với chi phí nợ cao hơn nhiều. “Xét về tính bền vững của tài chính Mỹ, tình hình này thậm chí còn tồi tệ hơn so với 10 năm trước”, vị chuyên gia kết luận.

Điều may mắn chính là việc kịch bản vỡ nợ ít có khả năng xảy ra. Do trần nợ công là vấn đề riêng của Mỹ nên cách thức xử lý cũng mang “đặc trưng Mỹ”. Đây không phải là lần đầu tiên Mỹ vướng vào tranh cãi về trần nợ công. Tính từ năm 1960 trở lại đây, Quốc hội Mỹ đã có 78 lần thông qua các quyết định về nâng trần nợ công, đóng băng trần nợ công hay tái định nghĩa trần nợ công.

Nhìn rộng ra, vấn đề nợ công thường được đẩy căng tại những thời điểm mâu thuẫn đảng phái chính trị tại Mỹ nổ ra gay gắt, khi không có đảng nào giành quyền kiểm soát Quốc hội lưỡng viện. Đảng Dân chủ và Cộng hòa đều sử dụng chiến thuật gây sức ép trước đàm phán về trần nợ để buộc đối phương phải nhượng bộ.

Nhưng sau cùng hai bên đều đi đến bước thỏa hiệp, bởi không muốn bị nhìn nhận là tác nhân tự tay đẩy kinh tế Mỹ vào suy thoái, gây bất ổn xã hội. Lần này có lẽ cũng vậy. Nhiều khả năng các bên sẽ đạt được một thỏa thuận về tạm thời nâng mức giới hạn trần nợ công hoặc đóng băng trần nợ công trong thời hạn nhất định.

Nhưng chừng nào chưa có đồng thuận về một khung dài hạn cho trần nợ công theo hướng bền vững hơn, kiểm soát chi tiêu chặt chẽ hơn, nước Mỹ sẽ vẫn ở tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng, luôn phải đi vay. Đóng cửa chính phủ hay nguy cơ vỡ nợ với kinh tế vì trần nợ công khi đó sẽ luôn là câu chuyện “đến hẹn lại lên” của nước Mỹ.

Khổng Hà (tổng hợp)

.
.
.