Đẫm nước mắt tìm đồng đội giữa mưa bom bão đạn
Tháng 12, miên man trong ký ức về một thời hoa lửa, nhớ bao nhiêu đồng chí, đồng đội đã anh dũng ngã xuống, người cựu cán bộ Quân báo Quân khu Sài Gòn - Gia Định (SG-GĐ) bộc bạch với phóng viên Chuyên đề ANTG rằng, có những chuyện tới khi nào nhắm mắt thì thôi chứ không thể nào quên. Và tuy có những chuyện chỉ nghe lại từ đồng chí, đồng đội, nhưng giờ nhớ lại, ông bỗng thấy cay cay nơi khóe mắt…
Giấc ngủ dài trên mái gió
Kể về người chiến sĩ biệt động quả cảm trải qua “giấc ngủ dài” gần 20 năm trên mái gió giữa trung tâm Sài Gòn sau trận đánh vào Dinh Độc lập Tết Mậu Thân 1968, ông Chín Chinh cho biết: “Tên thật của anh là Quốc - Lê Tấn Quốc. Là người gốc miền Bắc, đồng đội quen gọi anh là “Bảy Rau Muống” vì anh thứ Bảy, vợ anh - chị Hảo chuyên trồng rau muống ở vùng Phú Thọ Hòa. Dưới nền nhà của hai vợ chồng anh Bảy từng làm hầm chứa vũ khí phục vụ cách mạng”.
Vào đêm mùng 1 rạng sáng mùng 2 Tết Mậu Thân, với vai trò là Chỉ huy phó, Bảy Rau Muống cùng 14 thành viên của Đội 5 Biệt động xuất phát từ một căn nhà trên đường Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu, TP Hồ Chí Minh - PV) tiến về Dinh Độc lập - cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn.
Cuộc chiến đấu ngoan cường đã diễn ra giữa cánh quân Biệt động Sài Gòn trước hàng chục đợt phản công của địch diễn ra từ rạng sáng đến tối mồng 2 Tết, khiến 7 chiến sĩ Biệt động hy sinh; số anh em còn lại, trong đó có Bảy Rau Muống, người bị thương, người kiệt sức vì đói nên phải rút vào một căn nhà ở đường Thủ Khoa Huân. Lợi dụng đêm tối, từ tầng 3 của căn nhà, Bảy Rau Muống lệnh cho tất cả anh em leo qua nhà cạnh bên ở phía sau rồi tìm cách di chuyển về hướng chợ Bến Thành để tìm đường thoát khỏi vòng vây, còn ông ở lại bắn cầm chừng chặn địch. Thế nhưng, khi rút đến nhà số 108 Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng, TP Hồ Chí Minh), do tất cả đều hết đạn, không còn khả năng chiến đấu nên 7 chiến sĩ lần lượt bị địch bắt.
“Sau cuộc chiến đấu này, khi kiểm tra tin tức từ trinh sát nội đô, điệp báo của ta, tin tức của địch và từ số chiến sĩ bị bắt thì không ai có tin tức gì về Bảy Rau Muống. Sau ngày giải phóng, chị Hảo cũng bặt tin về chồng mình. Gần 20 năm sau trận đánh đó, cuối 1986, khi sửa chữa một căn nhà trên đường Nguyễn Du mà các chiến sĩ Biệt động từng trụ lại đánh địch, người ta phát hiện trên tấm ô văng che cửa sổ ở lầu 2, có một bộ xương khô chỉ còn cái sọ và một số xương lớn nằm chung với phần sắt đã hoen rỉ của khẩu AK mà Bảy Rau Muống từng sử dụng”, ông Chín Chinh cho biết.
“Anh Bảy là một trường hợp rất đặc biệt. Hành động dũng cảm, tư thế hy sinh và giấc ngủ dài gần 20 năm trên mái hiên của anh như là một kiểu “phong táng” của một người anh hùng”, vừa kể ông vừa cho tôi xem nội dung bút tích của cố Đại tá Trần Minh Sơn, nguyên Tham mưu trưởng Biệt động Sài Gòn, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu SG-GĐ (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh TP Hồ Chí Minh sau này), trong một lần ông nhắc đến liệt sĩ Bảy Rau Muống.
Hai lần hy sinh
Mùa khô năm 1974, đơn vị của Chín Chinh - Ban Quân báo Quân khu SG-GĐ, có một bàn đạp nằm ở bờ Đông sông Sài Gòn (trước thuộc Bến Cát, tỉnh Bình Dương, nay là TP Hồ Chí Minh). “Bàn đạp nằm ở vùng đất nhỏ hẹp giữa hai sông Sài Gòn và Thị Tính, gần vùng dân cư, từ đó ta có thể dựa vào dân để nắm địch và tiện việc đưa đón cán bộ, chiến sĩ, giao liên từ căn cứ ra vào SG-GĐ và ngược lại”, Chín Chinh cho biết.
Một buổi sáng cuối mùa khô năm đó, 3 cán bộ của bàn đạp gồm Tư Điệp - Tổ trưởng, Võ Thanh Bạch - Tổ phó và Nguyễn Văn Thành bảo vệ, di chuyển về căn cứ để họp. Men theo con đường nhỏ gần bờ sông, khi di chuyển đến gần khu đồn Rạch Bắp thì cả ba bị địch phục kích. Một loạt đạn đuổi theo...
“Chiều tối đó, khi chị Tư Điệp về báo lại, lãnh đạo Ban cử ngay một tổ đi tìm xác hai anh Bạch và Thành dù địch vẫn đang lùng sục vùng này. Không thể bỏ xác đồng chí mình, lãnh đạo Ban phân công thêm một tốp khác do Hai Trưởng, khi đó đang ở ngoài bàn đạp xóm Bảy Nhà, phụ trách, đi tìm”, Chín Chinh kể.
Các thành viên trong tổ tìm kiếm để ý thấy Hai Trưởng tập trung tối đa vào cái mũi mà trời cho anh. Dưới cái nắng chói chang, chưa bao giờ Hai Trưởng mong ngửi được mùi tử khí như lúc này. Hồi lâu cái mũi thính của anh cũng phát huy. Anh em tiến dần theo hướng Hai Trưởng chỉ, còn anh thì đi theo hướng có mùi nghi là phát ra từ xác đồng đội đã hy sinh. Càng lúc anh càng mừng khi mùi tử khí càng nặng hơn. Chừng vài trăm mét sau thì anh em thấy một cái xác đã trương sình đen thui nằm dưới ánh nắng như thiêu đốt…
Hai Trưởng nhanh chóng dùng rượu tưới lên cái xác. Không nhìn ra là xác của ai nhưng nhờ cái bao súng K54 vấy máu đã chuyển sang màu đen nên biết đây là anh Bạch, vì anh Thành dùng súng AK. Sau khi phủ mấy lớp ni lông và xúc đất đắp lên khá kín xung quanh và chặn mấy cục đá lên trên thì mùi tử khí giảm hẳn. Rồi anh em tỏa ra tìm xác anh Thành. Hồi lâu tìm không thấy gì và cái mũi của Hai Trưởng cũng không ngửi được mùi gì nên tất cả rút về.
Trên đường về, anh Be chẳng may bị thương ở vai do trúng miễn pháo địch bắn vu vơ mấy quả xuống đoạn đường qua Rạch Kiến. Rủi nhưng thành may, đó là khi đưa anh Be vào Bệnh xá C2 cách đó khoảng 2 cây số để băng bó, tại đây các anh gặp anh Thành cũng đang nằm đó với 3 vết thương trên mắt, tay và dưới đùi.
Sau chiến tranh gặp lại đồng đội, ông Thành kể thêm lần bị phục kích năm đó. “Hôm đó, anh Thành đạp xe đi trước. Khi đến gần Rạch Bắp, thấy có một trái đạn M79 ai để dựng đứng giữa đường, sinh nghi nên anh dừng lại ra dấu cho anh Bạch chở chị Tư Điệp đi phía sau. Khi dừng lại quan sát, phát hiện địch nên anh cùng mọi người bỏ xe chạy về hướng bờ sông nhưng chỉ được mấy bước thì địch bắn như mưa, anh bị trúng vào đùi phải. Một hồi, khi bọn địch xông tới, anh nghe một loạt súng rất gần; sau mới biết là chúng bắn bồi anh Bạch. Anh Thành bị tên Xuân, đồn phó đồn Rạch Bắp đứng sát đó, chĩa khẩu M16 vào đầu. Phản xạ tự nhiên, anh đưa tay lên che. Tên Xuân bắn nguyên một loạt rồi bỏ đi. Số anh may khi chỉ có một viên đạn xuyên qua bàn tay giữa ngón trỏ và ngón giữa rồi sượt qua phần xương trên lông mày phải. Sau đó, bọn địch lấy súng, xe... rồi rút hết.
Một tuần sau khi tìm được xác anh Bạch, lãnh đạo Ban cử một tổ đông hơn do anh Tám Khải phụ trách, đem theo phương tiện để chôn cất. Đến nơi, các anh thận trọng lấy mấy tấm ni lông trên xác ra, tưới rượu lên, dùng dây dù dài cột vào xác rồi ra xa nấp dưới các hố pháo, kéo lật xác anh Bạch lại. Thật đúng như dự đoán, một tiếng nổ phát ra, bọn địch đã gài bẫy lựu đạn dưới xác anh. Anh hy sinh một lần nữa”, giọng ông Chín Chinh bùi ngùi và cho biết: “Sau này nhiều người dò hỏi thì mới biết anh Thành đã mất nhiều năm rồi, còn chị Tư Điệp không rõ đang ở đâu…”.
Mộ phần phủ kín hoa bằng lăng rừng…
Nhắc lại chiến dịch Golden Stone mà Mỹ đánh vào căn cứ của Trung ương Cục miền Nam năm 1968, ông Chín Chinh nhớ như in lời kể của Đại tá Huỳnh Thiện Hùng, nguyên Phó tư lệnh Binh đoàn 16 - Bộ Quốc phòng. “Anh Hùng là anh của Huỳnh Lan Khanh. Tôi với anh Hùng ở chung phòng khi học ở Học viện Chính trị Quân đội ngoài Bắc năm 1978 - 1981”,ông Chín Chinh cho biết.
Gần 7h sáng ngày 4/1/1968, 6 cán bộ Văn phòng cơ quan Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (MTDTGPMN, căn cứ đặt tại khu vực Suối Chò, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh) thực hiện việc tải gạo. 2 xe đạp mà tổ được bố trí, ưu tiên cho hai thành viên nữ, trong đó có Huỳnh Lan Khanh, nữ nhân viên làm công tác văn thư của Văn phòng.
Khi đến gần chỗ nhận gạo, hai chị đạp xe đi trước đoàn cùng với đồng chí Nguyễn Chiến Thắng, có mang theo khẩu AK. Nhưng thật không may, tại khu vực bìa Trảng Dầu (xã Tân Lập), cả ba lọt vào ổ phục kích của địch. Loạt tiếng nổ của mìn định hướng vang lên… Lan Khanh bị thương và bị địch bắt.
Khi bom đạn đã lắng xuống, đồng đội của chị quay lại tìm nhưng không thấy. Năm ngày sau, thi thể của chị được phát hiện nằm sát ven rừng (cách trận địa khoảng 400m). Trong lúc đi tìm, tại nơi Lan Khanh bị địch bắt, đồng đội tìm thấy cặp kính cận mất tròng. Sau khi nghe anh em bộ đội báo là có thấy một người rơi từ trực thăng xuống mấy ngày trước đó, mọi người có linh cảm đó là Lan Khanh...
Rừng biên giới bấy giờ mấy tầng cây rậm rịt, ngoài những con đường mòn nhỏ, bước vào rừng cách chục bước là hết thấy nhau. Tìm đồng đội hy sinh trong rừng rậm thật không dễ, phải tập trung cả các giác quan mắt, mũi, tai. “Mắt không chỉ nhìn xuống đất, vào các lùm cây mà còn phải nhìn lên trời cao để mong thấy được… đám chim, đám quạ vòng lượn tìm mồi. Mũi phải hít sâu để nghe mùi tanh của máu những người bị thương hay mới chết vì bom đạn hoặc mùi hôi của người chết đã nhiều ngày. Tai căng ra để nghe tiếng diều tiếng quạ tranh mồi hay tiếng bầy ruồi nhặng vo ve trong bụi rậm... Rất bi thương nghiệt ngã nhưng biết làm sao!”, ông bồi hồi khi nghĩ đến tình huống đó.
Kể tiếp chuyện đồng đội tìm cô nhân viên văn thư, buổi sáng của ngày thứ năm sau cuộc phục kích của địch, hai người chị cùng cơ quan với Lan Khanh đi vào sâu hơn cánh rừng nơi có nhiều cây bằng lăng bị trúng bom đạn còn trơ những cành khô chĩa lên trời như những mũi giáo. Bằng lăng trong rừng khu vực căn cứ nhiều cây thân to và rất cao; hoa bằng lăng tím nhạt đẹp thanh khiết.
"Lan Khanh ơi, em ở đâu, để tụi chị đưa em về”, tay cầm mấy cành bông bằng lăng, miệng hai chị nói như… khấn. Hồi lâu, hai chị đi về chỗ mấy con quạ đang kêu trên những nhánh khô của một cây bằng lăng lớn và phát hiện trên một cành khô chĩa lên trời xanh, có những mảnh vải quần áo mắc vào. Dọc theo hướng thân cây, trên những nhánh khô, có khúc ruột người bị móc lại. Các chị run lên khi phát hiện ngay dưới gốc cây là xác người em gái. Nỗi đau tột cùng khiến cả hai không còn thấy mùi tử khí. Tiếng quạ bỗng kêu rộn ràng như lời ai oán trên cao, còn dưới đất, tiếng nấc nghẹn ngào của hai nữ cán bộ khi tìm thấy xác người em đồng chí.
Lan Khanh được đem về chôn giữa mộ của hai đồng đội đã hy sinh. Những nhánh hoa bằng lăng tím phủ kín mộ phần…
“Năm 17 tuổi (đang học lớp Đệ Nhị - Tú tài 1, Trường nữ sinh Gia Long), Huỳnh Lan Khanh được tổ chức chọn là “hạt giống đỏ” đưa ra miền Bắc đào tạo nhưng em cương quyết xin được ở lại miền Nam tham gia kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hiền lành, xinh đẹp và tài hoa, cho tới ngày hy sinh, Lan Khanh còn chưa tròn tuổi 20 và mới vào căn cứ được hơn một năm. Dù sức vóc nhỏ bé nhưng em tích cực tham gia đào hầm trú ẩn, công sự chiến đấu, gặt lúa, trồng khoai mì, tải gạo,… Không ngại việc, nên ai cũng yêu quý em”, Chín Chinh nhớ lại lời của Đại tá Huỳnh Thiện Hùng.
47 năm sau ngày hy sinh, liệt sĩ Huỳnh Lan Khanh được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Tên chị và người cha kính yêu - kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (khi chị hy sinh, ông đang là Phó Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa XHCN Việt Nam), đã được đặt tên đường, tên trường tại TP Hồ Chí Minh và nhiều địa phương khác.
Ông Hồ Duy Hùng, tức Chín Chinh, sinh năm 1947, quê gốc Quảng Nam, là một điệp viên của QĐND Việt Nam được cài vào làm phi công trực thăng của Quân lực VNCH. Một trong những thành tích ấn tượng chính là lần ông thực hiện kế hoạch “lấy cắp” chiếc máy bay UH-1 của VNCH tại Đà Lạt bay vào vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam vào đầu 11/1973. Chuyên đề ANTG từng có bài viết 2 kỳ về phi vụ đặc biệt này (bài Tròn nửa thế kỷ phi vụ có một không hai của tình báo Việt Nam (7/11/1973 - 7/11/2023)). Tên tuổi của ông còn được độc giả ANTG biết đến qua vệt bài 3 kỳ “Bay trong trời tự do” - tác phẩm vào tháng 4/2025, được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trao Chứng nhận khi tham dự Giải sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí của Bộ Quốc phòng về đề tài Lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng giai đoạn 2020-2025.
