Ám ảnh ở những “làng ung thư”...

Thứ Sáu, 07/07/2017, 08:11
Những ngày đầu tháng 7 này, trên các phương tiện thông tin đại chúng như sôi lên trước thông tin, 420 hộ dân với hơn 2.000 nhân khẩu ở thôn Vân Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ nhiều năm qua phải sinh sống bằng nguồn nước bị ô nhiễm chất sắt (Fe) đến gấp 18,1 lần cho phép.

Đau xót hơn là số người chết vì các chứng bệnh ung thư của thôn Vân Hòa trong gần 10 năm qua đã vượt qua con số 40 người và chỉ trong vòng 4 tháng đầu năm 2017 cũng đã có 5 trường hợp chết vì ung thư khi tuổi đời còn rất trẻ.

1. Chúng tôi đã có mặt ở thôn Vân Hòa để nghe thật rõ những than thở của người dân nơi đây. Họ cho rằng nguồn nước chính họ đang sử dụng là từ các giếng khoan, thế nhưng nguồn nước này có mùi hôi rất khó chịu, mặc dù đã được lọc bởi rất nhiều phương pháp nhưng mùi hôi vẫn không hề được cải thiện. Họ còn cho biết thêm rằng, nước này sau khi lọc mang rửa rau thì bất ngờ chuyển màu đen và có mùi tựa như mùi thuốc uốn tóc... Nhiều trường hợp trong thôn bị ung thư gan, ung thư dạ dày đã chết chỉ sau khi phát bệnh một thời gian ngắn.

Tìm hiểu về thực trạng những ngôi làng bị nhiễm độc này, chúng tôi thấy rằng: Thời gian gần đây, thông tin từ các cơ sở y tế cho hay có rất nhiều những vùng quê nằm trải dài trên địa bàn của các tỉnh miền Trung, có nhiều người cùng mắc bệnh, rồi chết và chết rất trẻ khiến dư luận nhân dân hết sức hoang mang, lo lắng.

Nhiều người khẳng định rằng, những vùng quê có nhiều người chết như thế hầu hết trước đây là vùng chiến sự hoặc là vùng căn cứ của Mỹ - VNCH, nơi dự trữ khá nhiều chất độc hóa học để phục vụ cho chiến tranh. Lãnh đạo chính quyền địa phương ở những vùng quê này thì cũng chỉ giải quyết vấn đề ở mức độ ghi nhận hiện tượng, có người bày tỏ sự sốt ruột và trông đợi vào kết quả khảo sát, nghiên cứu của ngành y tế...

Khu xử lý nhiệt đang xử lý 43.000 m3 đất nhiễm dioxin ở Đà Nẵng.

Điển hình về tình trạng này là những trường hợp người chết ở thôn Trạch Phổ, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền (Thừa Thiên Huế). Nhiều người vẫn truyền tai nhau rằng: “Trạch Phổ là làng ung thư”, bởi lẽ trong thôn này có rất nhiều người chết vì những chứng bệnh không thuốc thang nào chữa khỏi, những con người xấu số ấy đều bị cho rằng đã qua đời vì chứng bệnh ung thư, trong số đó có nhiều trường hợp tuổi đời còn rất trẻ.

Đơn cử trường hợp của anh Nguyễn Văn Tiệp ở thôn Trạch Phổ, khi mắc bệnh đã được người thân đưa đến bệnh viện tuyến trên để khám. Bác sĩ nhận định bệnh nhân bị ung thư lưỡi và sau đó không lâu thì tử vong. Cũng trong làng này, có trường hợp hai anh em của ông Nguyễn Văn Quảng và Nguyễn Văn Mưu, vốn là những lao động chính của gia đình.

Đang mạnh khỏe bình thường với công việc đồng áng, bỗng dưng ngã bệnh. Người nhà phải chạy đôn, chạy đáo đưa đi Bệnh viện Trung ương Huế để khám tìm nguyên nhân. Với những kết quả y khoa, bác sĩ chẩn đoán ông Mưu bị ung thư dạ dày, ông Quảng bị ung thư máu. Cả hai bệnh nhân này đều được xác định là bệnh đã ở giai đoạn cuối nên khó lòng chạy chữa...

Một người thân trong gia đình ông Mưu kể rằng: Sau khi có kết quả xét nghiệm, gia đình dù không dư giả gì nhưng vẫn chạy chữa thuốc thang cho hai ông. Vì bị ung thư nên những ngày nằm viện là những ngày gia đình phải chi phí lớn. Bao nhiêu tiền tích góp được, cộng với tiền huy động, vay mượn của người thân rồi cũng cạn dần. Khi gia đình lâm vào cảnh túng bấn khốn cùng, nợ nần chồng chất cũng là lúc người thân của họ nhắm mắt xuôi tay...

Trao đổi với chúng tôi về hiện trạng này, nhiều người cao tuổi có thâm niên sinh sống ở làng Phổ Trạch cho biết: Đây xưa kia vốn là chiến khu của quân giải phóng vì vậy mà trong những năm tháng chiến tranh, quân đội Mỹ - VNCH đã thả xuống vùng đất này rất nhiều bom đạn. Những trận oanh kích thảm khốc ấy đã để lại trên đất của làng rất nhiều hố bom. Rồi nước mưa trút xuống, những hố bom trở thành những cái giếng tự nhiên và người dân trong làng đã sử dụng nguồn nước từ những cái giếng này để sinh hoạt.

Phải đến năm 2006, làng Phổ Trạch mới có được nguồn nước sạch, tuy nhiên, nhiều người dân vẫn chỉ dùng nguồn nước sạch để ăn uống, còn lại các sinh hoạt khác như tắm, giặt thì vẫn dùng nước đọng từ những hố bom kia.

Ông Nguyễn Hữu Định - Trạm trưởng trạm y tế xã Phong Hòa lần giở cuốn sổ tay công tác, đếm được hơn 30 trường hợp trong làng mắc bệnh ung thư từ trước đến nay. Từ năm 2013 đến thời điểm này có 21 người bị bệnh thì đã có 17 người chết.

2. Không riêng gì làng Phổ Trạch ở xã Phong Hòa. Thời gian trước đây, ở Thừa Thiên Huế đã rộ lên tin đồn có những “làng ung thư” đang tồn tại. Đó là “làng ung thư” ở xã Thủy Dương, thị xã Hương Thủy và “làng ung thư” ở xã Phong Sơn, huyện Phong Điền.

Xã Phong Sơn là một địa bàn vùng bán sơn địa của huyện Phong Điền (Thừa Thiên Huế). Trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, đây được xem là vùng trọng điểm của chiến tranh, là căn cứ địa cách mạng của quân giải phóng. Vì thế, Mỹ đã trút xuống vùng đất này không biết bao nhiêu là bom đạn và chất độc hóa học.

Người ta kể rằng, có thời điểm dường như ở vùng đất này không có một loại cây nào sống sót nổi trước sự tàn phá của chất độc da cam. Sau chiến tranh, người dân huyện Phong Điền lại quay về vùng căn cứ cách mạng trước kia để làm ăn sinh sống. Nguồn nước sinh hoạt của người dân vùng này từ vài chục năm sau ngày đất nước thống nhất chủ yếu vẫn là nguồn nước tự chảy, nước tù đọng có sẵn trong những hố bom.

Khi rửa rau, nước chuyển màu đen ở thôn Vân Hòa.

Càng về những năm sau này, ở đây có nhiều người ngã bệnh, khi đi đến bệnh viện khám, xét nghiệm, bác sĩ nhận định là bị ung thư, mà toàn là những bệnh nhân bị ung thư giai đoạn cuối. Vì thế, gần mười năm qua, trên địa bàn của xã Phong Sơn đã có ngót 100 người qua đời vì bệnh tật. Điều đáng nói là trong số những người đã khuất ấy có rất nhiều người tuổi đời còn rất trẻ. Và cũng vì vậy mà cuộc sống vốn dĩ rất đỗi bình yên của bà con nông dân ở Phong Sơn đã phần nào bị chao đảo...

Những thôn có nhiều người bị bệnh rồi chết ở Phong Sơn là thôn Cổ Bi, Phe Tư, Tứ Chánh... đây cũng là những thôn có vị trí nằm thấp nhất của xã. Tiếp xúc với người dân nơi này, họ bảo rằng: Vùng này trước đây là vùng trọng điểm nên lính Mỹ rải thảm chất độc da cam với hàm lượng lớn. Lâu ngày, chất độc ấy thẩm thấu vào đất, rồi hòa vào dòng nước sinh hoạt của bà con. Một phần khác nữa là các loại thuốc trừ sâu, phân bón, qua mấy chục năm người dân canh tác, giờ cũng tan trong nước gây ảnh hưởng đến đời sống của con người... bây giờ còn đỡ, chứ vài năm trước, nước giếng của làng Tứ Chánh, Phe Tư có nơi còn đỏ au như màu của đất sét, lại có mùi hăng hắc rất khó chịu.

Chính quyền thì khuyến cáo người dân đừng dùng thứ nước ấy, nhưng người dân không dùng thứ nước ấy thì lấy nước ở đâu mà dùng? Có lẽ vì vậy mà từ năm này qua năm khác, nguồn nước đã phần nào gây tác động xấu đến sức khỏe con người!?

Miền Trung Việt Nam, trong khoảng thời gian 10 năm từ 1965 đến 1975 có thể nói là những ngày đỏ lửa của chiến tranh. Vì lẽ đó, nhiều vùng ở đây nhuốm mùi khói súng và bom đạn, Nhiều cánh rừng chịu ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Những năm sau chiến tranh, sự khó khăn về kinh tế đã đẩy hàng vạn gia đình phải tìm đến với những vùng đất mới để khai sơn, phá thạch, để trồng trọt, chăn nuôi...

3. Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và cả những miền đất thuộc cao nguyên miền Trung nữa. Đâu đó, bây giờ chúng ta vẫn thi thoảng thấy trên các phương tiện truyền thông cảnh báo ở đó đang tồn tại một “vùng đất chết” hay “một làng ung thư”.

Ở thôn Tú Ngọc A, xã Bình Tú, huyện Thăng Bình; thôn Bình Hòa, xã Bình Giang, huyện Thăng Bình và thôn Cẩm Sơn, xã Bình Lãnh, huyện Thăng Bình (Quảng Nam) cũng cùng chung số phận. Những năm gần đây, dưới mái tranh nghèo của những người nông dân chất phác, quanh năm chân lấm tay bùn ấy bỗng dưng bị ám ảnh bởi căn bệnh ung thư.

Những gia đình không may có người nhà lâm bệnh thì phải bán tống, bán tháo tài sản để tìm đường chạy chữa, những gia đình may mắn hơn chưa có người lâm bệnh thì sống trong thấp thỏm lo âu. Tiếp xúc với chúng tôi, những người dân ở thôn Tú Ngọc A, xã Bình Tú chia sẻ: Vùng này là dân thuần nông nên quanh năm chủ yếu chỉ quanh quẩn trong làng chứ chẳng đi đâu xa. Dịch bệnh thì cũng chẳng thấy nhưng hiện tượng trong thôn ngày càng có nhiều người mắc bệnh ung thư là điều có thật.

Đi tìm nguyên nhân phát bệnh thì nói chung là cũng chỉ ở mức độ nghi ngờ mà thôi chứ thực chất ở đây có máy móc để xét nghiệm hay đo đạc gì đâu mà biết chắc. Ông Trần Văn Tuấn ở thôn Cẩm Sơn cũng lo lắng cho biết: Tình trạng lâm trọng bệnh rồi chết ở quê ông ngày một nhiều hơn, điều đáng lo là trong số những người bị bệnh ấy có nhiều người tuổi đời còn rất trẻ.

Như trường hợp của chị Nguyễn Thị Thảo qua đời khi mới hơn 30 tuổi, để lại cho chồng là anh Trần Ngọc Quý một nách 3 đứa con thơ. Chị Thảo bị ung thư dạ dày, khi phát hiện thì bệnh tình đã nặng. Gia đình bán tống, bán tháo những thứ gì có thể bán được để chạy chữa cho chị nhưng rồi chị vẫn ra đi...

Ở cách nhà anh Quý không xa, anh Lưu Văn Thơ cũng qua đời ở tuổi mới ngoài 40 vì ung thư gan. Anh ra đi để lại vợ con nheo nhóc cùng với khoản nợ gần 100 triệu đồng đã vay mượn để chạy chữa cho anh. Đau đớn hơn, sau khi anh Thơ mất chẳng bao lâu, mẹ anh là bà Nguyễn Thị Số cũng qua đời vì bệnh ung thư vú...

Vùng đất bị cho là bị nhiễm chất độc hóa học ở xã Phong Sơn, huyện Phong Điền (Thừa Thiên Huế).

Ở thôn Cẩm Sơn này, còn có rất nhiều người qua đời vì chứng bệnh ung thư khi tuổi đời còn rất trẻ như anh Lý Xuân Được bị ung thư gan; bà Chung Thị Hoa bị ung thư máu; anh Nguyễn Tăng bị ung thư gan; bà Trần Thị Diệp bị ung thư vòm họng...

Trao đổi với chúng tôi về hiện trạng đau lòng này, một cựu chiến binh ở thôn Cẩm Sơn cho biết: Toàn bộ diện tích của làng Cẩm Sơn nằm ngay dưới chân núi Chóp Chài. Nơi đây, trong những năm từ 1968 đến 1972 là căn cứ quân sự của Mỹ.

Trong những năm chiến tranh ác liệt đó, lính Mỹ đã 2 lần dùng máy bay từ trên đỉnh núi Chóp Chài xuống phía bên dưới để rải chất độc phát quang. Nhiều người dân trong làng Cẩm Sơn vẫn còn nhớ, hồi đó sau khi máy bay Mỹ rải chất độc hóa học, hầu như từ đồng ruộng đến núi rừng, các loại cây đều trụi lá...

Có lẽ, do sau mấy thập kỷ của chiến tranh, nay chất độc ấy lan tỏa trong nguồn nước và người dân sử dụng nguồn nước ấy đã bị mắc phải di hại của nó. Do gia cảnh nghèo khó, vì vậy đa số những trường hợp bị bệnh phải đến lúc bi đát mới được người nhà đưa đi chạy chữa và lúc đó hầu hết là đã quá muộn màng...

Nguyên nhân từ đâu gây nên nỗi lo lắng cho người dân đang sinh sống tại những vùng quê có nhiều người chết, đến nay vẫn chưa có được một lời giải chính thức. Chưa có bất cứ một kết luận mang tính khoa học nào nhằm giải mã nỗi băn khoăn của người dân về hiện trạng này. Tuy nhiên, qua thực tế, chúng tôi khá đồng cảm về cách giải thích của những cán bộ y tế ở địa phương rằng: Những vùng đất họ đang sống bị nhiễm độc từ các chất hóa học còn sót lại sau chiến tranh.

Chúng tôi chỉ hy vọng rằng, tất thảy những người dân đang sinh sống trên những vùng đất bị cảnh báo là đã bị nhiễm độc sau chiến tranh, những vùng đất mà có nhiều người mắc bệnh ung thư một cách bất thường như bài viết trên đây chúng tôi đã nói tới sẽ được các tổ chức xã hội tiến hành tầm soát, để phát hiện mức độ nhiễm độc và có biện pháp tẩy độc tương tự như những bệnh nhân ở Đà Nẵng đã được Trung tâm Khử độc tố trong cơ thể của Bệnh viện Quân y 103 điều trị.

Hơn thế nữa, chúng tôi hy vọng trên vùng đất từng đi qua chiến tranh như miền Trung Việt Nam sẽ ngày càng có thêm nhiều hệ thống xử lý nhiệt như hệ thống đang xử lý 43.000m3 đất nhiễm dioxin ở khu vực sân bay Đà Nẵng...

Bảo Thy
.
.
.