“Vua cầu treo” mới học lớp 2

Chủ Nhật, 12/04/2009, 18:28
Năm 1995, Sáu Quý làm công trình cầu treo đầu tiên. Từ đó đến nay, chưa đầy 15 năm, ông Sáu Quý đã làm được gần 150 cây cầu treo cho vùng nông thôn các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nhưng mấy ai biết, người nông dân đầu búi tó, chỉ bận đồ bà ba, cha đẻ của thương hiệu cầu treo miền Tây, có tên đầy đủ là Phạm Văn Quý ấy mới chỉ học hết lớp 2 trường làng…

Khánh thành cầu treo Thoại Hà 2 do ông Sáu Quý xây dựng.

Cầu “thương hiệu” Sáu Quý

Trở lại chuyện ông "Vua cầu treo" Sáu Quý. Sáu Quý sinh năm 1963, tuổi Quý Mão, lớn lên miệt Châu Phú, một huyện nghèo nằm giữa thị xã Châu Đốc và thành phố Long Xuyên...

Câu chuyện về ông "Vua cầu treo” miền Tây bắt đầu từ con kênh mang số 13 (ấp Hưng Thạnh, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang - nơi Sáu Quý ở). Con kênh chắn ngay trước nhà Sáu Quý, cắt đôi xã Đào Hữu Cảnh, dài chưa tới 30m. Sáu Quý bắt đầu nghĩ đến cây cầu khi thấy con em chòm xóm, trong đó có những đứa con của mình phải đẩy xuồng qua sông để đến Trường tiểu học B Bình Phú, Châu Phú (An Giang), vừa nhọc nhằn, vừa nhiều nguy hiểm. Nhưng Sáu Quý nghĩ, làm cầu tre, những ngày mưa thân tre trơn láng dễ làm trẻ em té xuống sông rất nguy hiểm; còn cầu lót ván phải cắm trụ dưới lòng kênh 13, khổ nỗi, khi ghe tàu đi ngang, nhất là loại xáng cạp hay đi nạo vét kênh mương nội đồng phục vụ tưới tiêu, phải tháo dỡ cầu. Đến mùa nước lớn, ngập sâm sấp sàn nhà, lại phải dỡ cầu để cho phương tiện tối ưu khi ấy là ghe lưu thông.

Cần có một cây cầu vừa ít tốn kém, vừa có thể an toàn, không cản trở giao thông thủy và tồn tại lâu dài trở thành nỗi ám ảnh đối với Sáu Quý. Rồi một đêm tình cờ xem truyền hình, thấy có những cây cầu treo bắc ngang sông, một cây cầu dây bắc qua sông suối phục vụ kháng chiến, Sáu Quý reo lên vui mừng, như gỡ được tảng đá đè nặng trên ngực. Sáu Quý tính toán, căng dây làm thử, cuối cùng mới trình bày với bà con chòm xóm để... gom góp tiền mua vật tư làm cầu.

Dù nhiều người chưa tưởng tượng được cây cầu treo mà Sáu Quý trình bày sẽ như thế nào, nhưng vốn biết tính ông, bà con vẫn tin tưởng Sáu Quý sẽ làm được.

Thế là cây cầu đầu tiên hoàn thành trước sự ngỡ ngàng của bà con xã Đào Hữu Cảnh, cầu dây văng bằng sắt phi 6, có bề mặt rộng 1,2m bắc ngang kênh 13 dài gần 30m, ngay Trường tiểu học B, xã Bình Phú được xây dựng. Khỏi phải nói, khi đứng trước công trình đầu tiên, Sáu Quý mừng như thế nào. Cho tới nay, với riêng Sáu Quý, đấy vẫn là cây cầu mà ông tốn nhiều công sức nhất. Cũng từ khi ấy, Sáu Quý "cầu treo" bắt đầu được người ta biết đến. Có người gọi vui ông là "kỹ sư" làng...

Tiếp đến là cây cầu thứ 2, cũng nằm trên con đường ven kênh 13, ở đoạn có con kênh 10 vốn là ranh giới giữa hai xã Bình Phú và Đào Hữu Cảnh, cùng huyện Châu Phú. Ngày chưa có cầu, người dân đi tuyến đường này phải đẩy xe gắn máy xuống ghe chở qua bờ bên kia của con kênh 10 vừa rộng, vừa sâu. Với 42 triệu đồng, cây cầu treo có bề mặt 2m, dài hơn 40m hoàn thành. Cây cầu này đã được Sáu Quý tính toán cẩn thận với hai mố cầu đổ bêtông, buộc dây néo làm cáp treo trên đỉnh bốn trụ cầu xốc dưới mép sông rất chắc chắn...

Sau khi cây cầu thứ 2 hoàn thành, những "hợp đồng" mời Sáu Quý làm cầu liên tiếp đến do người ta nghe tiếng mà tìm đến, Sáu Quý nào dám trưng bảng, nào có công ty, khuếch trương "thương hiệu" gì. Nhiều huyện trên địa bàn tỉnh An Giang có cầu treo do Sáu Quý thiết kế, thi công. Các huyện như Châu Thành, Thoại Sơn, Tân Châu, Châu Phú đều có cầu treo "thương hiệu" Sáu Quý... Riêng tuyến kênh xáng Châu Thành - Tri Tôn có đến 4 cây cầu treo. Rồi tiếp theo là Mương Trâu, Ô Long Vỹ...

Sau khi quan sát, nghiên cứu từ mô hình cầu dây văng Mỹ Thuận, những chiếc cầu treo sau này đã được Sáu Quý cải tiến ngày càng chắc chắn, kiên cố hơn với những trụ bêtông thay trụ gỗ, dây văng căng ra trên đỉnh 4 trụ bêtông. Cầu treo Sáu Quý cũng hiên ngang trụ ở sông lớn...

Đầu tháng 2/2009, khi vừa hoàn thành công trình cầu treo dây văng Phú Vĩnh, Sáu Quý đã được Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam cấp "Chứng nhận điển hình sáng tạo Việt Nam" về thành tích xây dựng cầu treo cho nông thôn ĐBSCL.

“Kỹ sư” lớp 2

Ông Sáu Quý có dáng ngồi rất ư Nam Bộ, chân bắt chéo, khăn rằn quấn cổ và mái tóc dài búi tó, ca vọng cổ mùi mẫn như kép cải lương. Nghe ông thao thao về cầu, về đà, về dầm, về trọng lực, về bêtông ly tâm, tôi ngồi nghe cứ ngỡ đây là kỹ sư có bằng cấp hẳn hoi. Đến nỗi, tôi phải hỏi đi hỏi lại rằng, có thật ông mới học hết lớp 2 trường làng? Sáu Quý cười rồi bảo, lớp 2 ấy là anh "tính" như thế, chứ nào có thi cử, lớp lang như bây giờ.

Thời niên thiếu của Sáu Quý, cả miệt Châu Phú này nào có mấy người học cao, cha mẹ anh cố gắng lắm mới cùng chòm xóm góp lúa lại thuê thầy về dạy học, cho con em họ chỉ đủ biết cái chữ. Còn kiến thức về xây dựng? Tôi hỏi. Sáu Quý chỉ bảo: "Học. Cái gì mình không biết thì hỏi người ta. Mình hay xem truyền hình. Ngày xây dựng cầu Mỹ Thuận, cứ độ dăm bữa, mình lại lên coi, hỏi mấy người làm cầu. Thế là biết"!

Nói đến cầu treo Sáu Quý không thể không nói đến cầu treo Phú Vĩnh, đây là cây cầu thể hiện "đẳng cấp" riêng của ông, cây cầu nối liền hai huyện Thoại Sơn, Châu Phú, bắc ngang sông Long Xuyên. Phát huy các công trình cầu treo bằng trụ điện cũ, các công trình mới sau này có quy mô lớn hơn, cầu Phú Vĩnh, Sáu Quý sử dụng trụ bêtông ly tâm mới. Sau nhiều năm thi công "chay", theo kinh nghiệm tích lũy, Sáu Quý mày mò học hỏi thêm. Sau này, kỹ thuật xây cầu cũng được cải tiến so với trước đây, 4 chân trụ cầu sử dụng hết 64 trụ bêtông (mỗi chân 16 trụ, dài 12m).

Sáu Quý cho hay: "Sàn cầu Phú Vĩnh được lắp ghép bằng các tấm thép 6 li, phủ lên lớp nhựa đường để chống trượt, gỉ sét và bào mòn. Cách chống gỉ dầm cầu, khung lan can, trụ tháp... sơn chống sét rồi phủ lên lớp nhựa đường để chống thấm nước. Định kỳ 6 tháng, dùng nhớt cũ quét lên bề mặt, nhựa đường sẽ sống lại, cách bảo quản này ít tốn công mà lại rẻ tiền". Theo Sáu Quý, nếu bảo quản đúng cách, cầu có tuổi thọ sử dụng 30 năm.

Khi xây dựng cầu Thoại Hà 2 và Thoại Hà 3, Sáu Quý nghiên cứu cải tiến mới, tải chịu lực của sàn đạo bằng dầm dọc biên U300, vừa rẻ tiền nhưng tải trọng tăng được 2 tấn. Lan can cầu cũng được thiết kế vừa bền vừa mỹ thuật. Ngay khi dự lễ khánh thành xong cầu Thoại Hà 2 và cầu Thoại Hà 3, Sáu Quý đón xe đò đi Bến Tre tham quan cầu Rạch Miễu, nghiên cứu mô hình tháp treo cáp chữ A này, chuẩn bị cho việc thi công cầu Phú Vĩnh.

Khi đóng các trụ bêtông xuống lòng sông, cắt bỏ phần ngọn 3m, đổ đà nước để liên kết hai chân trụ cầu lại. Từ đà nước, đổ hai chân trụ tháp chịu lực tải bằng bêtông cốt thép (cao 5,5m). Trên đầu trụ tháp, sử dụng 4 tấm thép loại 8 li ghép lại thành tháp mắc dây treo (cao 16m). Phần ngọn trụ bêtông cắt bỏ, dùng đóng cọc móng cầu nên tiết kiệm được 15 triệu đồng. Sáu Quý huy động tất thảy anh em công nhân mà Sáu Quý biết, làm việc liên tục, ăn nghỉ tại công trường hơn 45 ngày ròng rã, cây cầu Phú Vĩnh mới hoàn thành.

Ngày khánh thành cầu Phú Vĩnh, người dân hai huyện Thoại Sơn, Châu Phú đến xem vui như hội, đây cũng là lần đầu tiên, ở hai huyện nghèo Thoại Sơn và Châu Phú có được cây cầu to, dài, bề thế đến thế!

Kinh phí đều do dân đóng góp

Hầu hết cầu treo Sáu Quý làm do nhân dân đóng góp kinh phí xây dựng, người dân phân công nhau liên hệ mua vật tư, giám sát thi công và nhân dân nghiệm thu một cách công khai. Sáu Quý biết đồng tiền nào của người dân cũng là mồ hôi, nước mắt. Cây cầu của ông, mỗi tấc sắt, viên đá, nắm hồ vữa... tất cả là tiền của nhân dân đóng góp. Thế nên, ngoài việc nghiên cứu kỹ thuật làm cầu, Sáu Quý phải mày mò nghiên cứu thêm để hoàn thành cây cầu với chi phí rẻ nhất, tiết kiệm tiền cho người dân. Vì vậy, các công trình bạc tỉ như cầu Phú Vĩnh, Thoại Hà 2 và Thoại Hà 3, kinh phí xây dựng chỉ bằng 2/3 so với giá trị thiết kế ban đầu.

Vào năm 2001, Quốc lộ 91 mở rộng, thấy ngành điện di dời bỏ các trụ điện bêtông cũ, Sáu Quý đến liên hệ với UBND huyện Châu Phú để xin những trụ điện bêtông cũ làm cầu nông thôn, dùng thay trụ gỗ. Sáu Quý bảo: "Trụ điện tuy cũ nhưng rất chắc chắn. 40 cây cầu treo xây dựng ở huyện Châu Phú, đa số sử dụng trụ điện cũ làm chân cầu, tiết kiệm được khoản tiền khá lớn".

Hơn 10 năm trước, Sáu Quý chỉ xây cầu treo từ thiện. Đội công nhân của anh cũng làm việc không ăn lương, khi nào rảnh việc nhà thì tham gia xây cầu. Vài năm gần đây, hợp đồng nhiều, công nhân của anh, phần lớn là những lão nông tri điền, suốt ngày theo công trình, không còn mấy thời gian để lo việc đồng áng, Sáu Quý mới bắt đầu nhận khoán thi công với giá rẻ để lấy tiền trả lương cho anh em công nhân có tiền nuôi vợ con.

Tùy kinh phí địa phương và hoàn cảnh đặc biệt của khu vực cần xây cầu mà Sáu Quý thu một khoản tiền công tương ứng với mức từ 10 đến 20%. Không ít cây cầu Sáu Quý làm, thấy người dân nơi đây nghèo quá, Sáu Quý quyết định xây giúp không lấy tiền công.

Đội quân thi công cầu của Sáu Quý đi đến đâu, không khí ở đấy thật náo nhiệt, rất đông người dân địa phương chung tay vào: người có tiền góp tiền mua vật tư, người góp gạo, góp thức ăn, người không có của thì góp công khuân vác! Sáu Quý đi đến đâu, là niềm vui lại ngập tràn...

Sáu Quý và con trai bên một cây cầu do ông xây dựng.

Bà Võ Thị Mười, vợ của Sáu Quý, bộc bạch: "Nơi nào vận động tiền xây dựng cầu quá khó khăn thì ổng chỉ lấy tiền công đủ để trả lương cho công nhân và những chi phí cần thiết phải có. Ổng nói, coi như phần tiền công, tiền lời của gia đình mình đóng góp vô xây cầu, tạo phúc đức cho con cháu".

Sáu Quý có 4 người con trai. Con lớn nhất là Phạm Hoài Ngọc, 25 tuổi, đã có vợ. Ngọc theo cha xây dựng cầu từ lúc còn nhỏ, nay đã là thợ lành nghề, có thể thay cha điều hành công việc xây cầu. Con trai kế là Phạm Thanh Ngà đang học đại học, chuyên ngành cầu đường, với mong ước nối nghiệp cha, xây dựng những cây cầu hiện đại, xóa cầu khỉ cho nông thôn vùng ĐBSCL

T.Yên - Cao Tâm (ANTG số 847)
.
.
.