Tổng Công ty Dâu tằm tơ bên bờ sụp đổ, công nhân về đâu?

Thứ Bảy, 16/09/2006, 09:38

Số lượng công nhân dâu tằm ở Lâm Đồng trước kia trên dưới 25 nghìn người, nay chỉ còn gần 2.000. Rất nhiều người trong số họ lại phải “tha phương cầu thực” lần thứ hai - như lần đầu họ đã vào “thủ đô dâu tằm” giữa thập niên 80.

Trong suốt 2 ngày ở thị xã Bảo Lộc, trên chiếc xe gắn máy, tôi lang thang qua từng con đường, từng góc phố của một nơi mà xưa kia, đã được mệnh danh là “thủ đô tơ tằm”. Tuy nhiên, tất cả những gì tôi nhìn thấy, chỉ là cảnh tiêu điều, xơ xác. Ngay trước sân Công ty Tơ Việt Ý, một chiếc xe ca đưa đón công nhân loại 52 chỗ ngồi, chẳng biết nằm đó từ bao giờ, dãi dầu mưa nắng, bụi phủ lên mặt kính một lớp mờ và nhiều chỗ đã gỉ sét.

Biết tôi đang tìm hiểu về VISERI, nhiều người nguyên là công nhân dâu tằm, đã nhiệt tình chỉ cho tôi đâu là nhà khách nằm trong khuôn viên Tổng công ty, đã được bán, đâu là khu nhà ở cho công nhân đang xây dựng, cũng đã bán. Ngay như Nhà máy Tơ Việt Ý, Xí nghiệp Ươm tơ Tháng 8 nghe nói VISERI cũng cho mướn và khu nhà 5 tầng, gần 100 phòng, hiện do một hãng sản xuất càphê, chè, thuê để kinh doanh.

Một số nhà kinh doanh thuê công nhân có tay nghề cao làm việc lại cho họ với mức lương từ 15 nghìn đến 30 nghìn đồng/ngày. Bộ máy điều hành Tổng công ty hồi nào lên đến hơn 300 người, nay chỉ còn vỏn vẹn trên dưới 50.

Con đường Trần Phú chạy dài tới cầu Đại Lào xưa kia sáng sáng, chiều chiều tràn ngập công nhân ươm tơ, kéo sợi, thì bây giờ hiếm hoi lắm mới nhìn thấy bóng dáng chiếc áo xanh. Ngay trước cổng Xí nghiệp Chế biến tơ tằm Bảo Lộc, phòng bảo vệ trống hốc trống hoác vì còn gì nữa đâu mà... bảo vệ. Trong sân, giữa những mối nối nền bêtông, cỏ mọc lún phún, xanh rì!

Trong vòng 10 năm kể từ khi thành lập, ước tính VISERI đã đầu tư cho sản xuất trên 500 tỉ đồng nhưng trong đó, hàng chục tỉ đồng được sử dụng rất lãng phí vì muốn làm ra sợi tơ sống dài trên 1.000 mét, phải có thiết bị cao cấp, mà đa số giống tằm ở Lâm Đồng lại không đáp ứng được yêu cầu này, nên VISERI phải nhập tơ sống từ Trung Quốc, Uzbekistan. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu nhập về không phải lúc nào cũng ổn định, nên nhiều máy móc, thiết bị, “đắp chiếu” nằm chơi.

Trong số 8 đơn vị trực thuộc VISERI đứng chân trên địa bàn Lâm Đồng được Chính phủ đồng ý cho phá sản,  ngoài Công ty Tơ Việt Ý, Xí nghiệp Chế biến tơ tằm Bảo Lộc, Công ty Dâu tằm tơ Bắc Lâm Đồng, Công ty Dâu tằm tơ Nam Lâm Đồng và Xí nghiệp Ươm tơ Tháng 8 đã nộp đơn cho Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Lâm Đồng để tiến hành các thủ tục, thì 3 đơn vị còn lại là Xí nghiệp Dệt tơ tằm Lộc Đức, Công ty Du lịch Đam Bri không xin phá sản, mà đề nghị được chuyển đổi sang hình thức cổ phần hóa. Riêng Nông trường Kohinda giao cho người lao động quản lý.

Công ty Tơ Việt Ý trước đây có 340 công nhân, thì hiện tại chỉ còn 160 người có tên trong bảng lương. Ở Xí nghiệp Ươm tơ Tháng 8, con số này là 145/371 người, còn Xí nghiệp Chế biến tơ tằm Bảo Lộc là 130 người. Bên cạnh đó, có những đơn vị như Công ty Dâu tằm tơ Nam Lâm Đồng, chỉ hơn chục năm mà 4, 5 lần thay đổi giám đốc. Nhiều người khi được đề bạt lên chức giám đốc, đã ngại ngần không muốn nhận, vì: “Nhận rồi thì phải giải quyết những hậu quả do các vị tiền nhiệm để lại”. Lại có giám đốc bị xử lý kỷ luật vì gây thất thoát tài sản - điển hình là ông Kỳ, Giám đốc Công ty Dâu tằm tơ Bắc Lâm Đồng, được đưa lên làm Giám đốc Xí nghiệp Dâu tằm tơ Đắk Lắk.

Chị Nguyễn Thị Liên, một thời là công nhân của VISERI cho biết: “Ngay từ cuối năm 1994 đầu 1995, nhiều nhà máy đã đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng. Công nhân có tháng làm việc 10 hoặc 15 ngày, lương chỉ trên 500 nghìn đồng/tháng. Rất nhiều người chặt bỏ cây dâu để trồng chè, càphê”. Có lẽ vì thế mà đến nay, không thể thống kê chính thức rằng trên địa bàn Lâm Đồng, hiện còn bao nhiêu hécta dâu do VISERI quản lý.

Đầu năm 2006, giá kén tằm bỗng vọt lên mức cao chưa từng thấy: 56 nghìn đồng/kg nhưng lúc này, rất nhiều vườn dâu đã biến mất. Một số hộ nông dân trước biến động ấy, đã toan tính quay lại với nghề nhưng quay làm sao được khi mà đất đai chung quanh, bạt ngàn những cây càphê, những cây chè.

Ông Phạm Định, ở phường Lộc Tiến, thị xã Bảo Lộc nói: “Người ta thường xuyên bón phân hóa học, phun thuốc trừ sâu cho càphê, chè. Con tằm ngửi thấy mùi này là lăn đùng ra chết ngay, trồng sao nổi nữa”.

Số lượng công nhân trước kia trên dưới 25 nghìn người, nay chỉ còn gần 2.000. Rất nhiều người trong số họ lại phải “tha phương cầu thực” lần thứ hai – như lần đầu họ đã vào “thủ đô dâu tằm” giữa thập niên 80. Một số khác thì đi xẻ gỗ lậu, hái song mây, hoặc làm đủ thứ nghề linh tinh để kiếm sống.

Anh Trần Văn Minh, công nhân Xí nghiệp Ươm tơ Tháng 8, nay ngồi bơm vá xe đạp, xe máy bên lề đường, ngậm ngùi: “Tôi bán hết nhà cửa đất đai ở Thái Bình, đưa vợ con vào đây những tưởng sẽ đổi đời bằng cây dâu, con tằm. Ai ngờ cuối cùng phải trông vào từng chiếc xe thủng lốp”.

Điều nghịch lý nhất là trong khi các đơn vị của VISERI mặc dù được rót tiền tỉ, được mọi ưu đãi nhưng liên tục làm ăn thua lỗ, thì các cơ sở ươm tơ, chế biến tơ tằm, các nương dâu của tư nhân, phải tự lực cánh sinh, vẫn sống khỏe, vẫn phát triển đều đều. Ấy thế mà trong báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh 5 năm – từ 2000 đến 2004, ngoài việc thừa nhận tiền lãi chỉ có 573 triệu đồng, nhưng lỗ đến 11,5 tỉ, thì có vị lãnh đạo VISERI vẫn nổ như pháo.

Nào là đến năm 2010, tổng doanh thu sẽ đạt 941 tỉ, lương cơ bản cho công nhân sẽ là 2,5 triệu đồng/tháng/người (trong lúc lương bình quân công nhân chỉ là 560 nghìn đồng); nào là triển khai thực hiện đầu tư mới nhà máy chế biến tơ chất lượng cao, nâng diện tích trồng dâu trong cả nước lên 40 nghìn hécta (Lâm Đồng 9 nghìn hécta), lợi nhuận ròng trên mỗi hécta là 1.000 USD...

Nhưng, cũng trong bản báo cáo này, VISERI lại thừa nhận: Giống dâu, giống tằm năng suất và chất lượng còn thấp, công tác cung ứng và quản lý trứng giống còn buông lỏng, thiếu nguyên liệu cho sản xuất, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn giống từ Trung Quốc, thị trường đầu ra chưa ổn định, công nhân thiếu việc làm, thu nhập thấp, mất cân đối cung cầu, nhà máy không chủ động được nguyên liệu cho sản xuất, thua lỗ kéo dài... Phải chăng, để đạt được mục tiêu mà VISERI đề ra cho đến năm 2010, thì cần có thêm vốn. Nhưng vốn đó từ đâu ra nếu không ngoài ngân sách Nhà nước?

Bà Trương Thị Phượng, Chánh tòa Kinh tế - TAND tỉnh Lâm Đồng khi đến tận nơi để kiểm tra, tiến hành các thủ tục phá sản đã nhận xét: “Tài sản của VISERI hoặc là hư hỏng hoàn toàn, hoặc là còn đó mà không sử dụng được”.

Làm ăn thua lỗ, công nhân thất nghiệp nên khi nghe tin một số đơn vị của VISERI xin phá sản, công nhân đã tụ họp lại để đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình. Sáng ngày 28/7/2006, khoảng 30 người tập trung trước cổng Xí nghiệp Ươm tơ Tháng 8 với biểu ngữ trên tay, yêu cầu giám đốc xí nghiệp phải có mặt để trả lời những thắc mắc của người lao động.

Một cán bộ thuộc Sở Lao động - Thương binh & Xã hội (LĐ-TB&XH) tỉnh Lâm Đồng lúc tiếp xúc với tôi, kể lại: “Trước đây, cũng đã có lần công nhân tụ họp, đề nghị được giải quyết quyền lợi. Lãnh đạo đơn vị đến, giải thích nhưng công nhân không nghe. Tới hồi Sở LĐ-TB&XH đến, nói thì họ nghe nhưng lãnh đạo đơn vị lại... cướp diễn đàn. Ngày 28/7, khi nhận được tin báo và khi chúng tôi xuống tới  nơi, thì Giám đốc xí nghiệp là ông Phạm Công Giáo không có mặt. Điện thoại gọi ông về để giải quyết, ông cho biết là đang ở Đồng Nai, nhưng ông... không về” (vì có lẽ về cũng chẳng giải quyết được gì).

Đến đầu giờ chiều, ông Dương Xuân Túy, Tổng giám đốc VISERI cùng Chánh tòa Kinh tế - TAND tỉnh Lâm Đồng là bà Trương Thị Phượng và đại diện một số ngành chức năng, tiến hành gặp gỡ số công nhân ngay trước cửa văn phòng xí nghiệp. Tựu trung, mọi ý kiến của công nhân nêu ra, đều cho rằng trong suốt thời gian làm việc cho VISERI, tất cả  nghĩa vụ họ đều thực hiện đầy đủ nhưng kể từ khi mất việc năm 2000 đến nay, lại không hề được hưởng chế độ gì, và họ yêu cầu ông Dương Xuân Túy phải trả lời bằng văn bản chứ không... hứa miệng. Vấn đề này được ông Dương Xuân Túy chính thức nhìn nhận, rằng có khoảng 2.000 công nhân nghỉ việc chưa được hưởng các chế độ theo luật định.

Chiều 31/7, Tỉnh ủy Lâm Đồng đã triệu tập một cuộc họp, gồm Chủ tịch HĐQT, Tổng, Phó tổng giám đốc VISERI, Thường vụ Đảng ủy VISERI, Chánh án TAND tỉnh, Bí thư, Chủ tịch thị xã Bảo Lộc để bàn biện pháp phối hợp xử lý việc phá sản của 5 đơn vị trực thuộc VISERI, đồng thời giải quyết quyền lợi cho người lao động.”--PageBreak--

Cũng vị cán bộ Sở LĐ-TB&XH tỉnh Lâm Đồng cho biết: “Theo yêu cầu của Bộ Tài chính, nếu doanh nghiệp có văn bản của tòa án về việc đã lâm vào tình trạng phá sản, không còn khả năng trả nợ, không còn phương án phục hồi thì Bộ mới duyệt cấp kinh phí để doanh nghiệp thanh toán các chế độ cho người lao động theo Nghị định 41/CP”. Nhưng cho đến nay, việc phá sản của 5 đơn vị trực thuộc VISERI mới bắt đầu tiến hành nên công nhân vẫn phải chờ.

Gặp gỡ chúng tôi, ông Nguyễn Ngọc Sơn, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Lâm Đồng nói: “Trước đây, Bảo hiểm xã hội thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc các đơn vị nhưng họ vẫn tìm cách trốn tránh. Thậm chí có nhiều hợp đồng lao động, họ ghi không đúng, chẳng hạn như trong mục quyền lợi, thì ghi là “không hưởng” hoặc bỏ trống mà mục đích là khỏi phải đóng tiền. Sau này, Sở tiến hành làm việc, VISERI mới nhìn nhận là sai...”. Bây giờ, lúc đã lâm vào tình trạng phá sản, cũng theo ông Sơn, thì: “Lãnh đạo VISERI bàn với các đơn vị phá sản, là bằng mọi cách để đóng tiền bảo hiểm cho công nhân và đến nay, cả 5 đơn vị ấy đều không còn nợ đồng nào”.

Mặc dù không nợ đồng nào, nhưng chính sách đối với người lao động, thì một đơn vị thuộc VISERI – là Công ty Dâu tằm tơ Nam Lâm Đồng lại rất mập mờ. Nguyên là tại đơn vị này, có 69 lao động nằm trong diện đối tượng được hưởng các chế độ quy định theo Nghị định 41 và Nghị định 115, ban hành ngày 10/8/2004 của Chính phủ về việc doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể.

Tiếp xúc với chúng tôi, đại diện 69 người nêu trên khẳng định từ khi vào làm, họ đều được công ty ký kết hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và hàng tháng, họ đều có tên trên bảng lương. Theo quy định bắt buộc, tiền bảo hiểm xã hội do người lao động đóng góp là 5% trên lương căn bản, cộng với 15% do doanh nghiệp bỏ ra nhưng chẳng hiểu sao mà từ năm 1999 đến 2004, những người này lại không có bảo hiểm xã hội.

Ông Nguyễn Ngọc Sơn còn cho biết: “Qua tìm hiểu, chúng tôi phát hiện Công ty Dâu tằm tơ Nam Lâm Đồng đã để ngoài danh sách 69 người ấy nên chúng tôi đã làm thủ tục truy thu tiền bảo hiểm trong suốt thời gian làm việc của họ”.

Vậy thì sự thật là thế nào? Do Công ty Dâu tằm tơ Nam Lâm Đồng... lỡ quên, hay hàng tháng công ty vẫn trừ tiền bảo hiểm của 69 công nhân vào lương, nhưng lại dùng tiền này để sử dụng cho việc khác như lời đồn? Xin được trích ra đây một đoạn trong văn bản của Công ty Dâu tằm tơ Nam Lâm Đồng về chuyện ấy: “Trong thời gian từ năm 1999 đến 2004, do tình hình hoạt động, sản xuất, kinh doanh của công ty gặp khó khăn về tài chính, nên công ty đã không lập đủ danh sách lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Đến nay công ty có 63 người (theo ông Nguyễn Ngọc Sơn là 69) ký hợp đồng lao động, có làm việc, hưởng lương nhưng không đóng bảo hiểm xã hội. Vấn đề này thuộc khuyết điểm của công ty...”.

Cho đến nay, việc phá sản của 5 đơn vị trực thuộc VISERI trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đang được Tòa Kinh tế tiến hành bằng việc các đơn vị kê khai tài sản, đối chiếu công nợ và xác nhận của các chủ nợ cũng như con nợ. Ngoại trừ một số công nhân tay nghề cao, hoặc được “gửi gắm” vào làm trong các liên doanh với nước ngoài là tương đối ổn định, còn thì đại đa số công nhân VISERI đều nằm trong tình trạng bỏ thì vương, thương thì tội.

“Thủ đô dâu tằm” ngày nào hoành tráng bao nhiêu, với nhà xưởng sáng trưng ánh điện, với tiếng máy rì rầm, với những đoàn xe, dòng người tấp nập thì nay im vắng như cảnh chợ chiều. Những nương dâu xanh ngắt bây giờ nhiều chỗ đã biến mất. Vào thăm một số nhà, thấy mấy chiếc nong treo lủng lẳng trong xó bếp, mạng nhện giăng ngang. Chạnh lòng tôi tự hỏi: Tơ vò bối rối vì ai?...

Vũ Cao
.
.
.