Sức sống mới trên chiến khu Đ

Thứ Ba, 21/09/2010, 08:25
Tháng 8, trong không khí cả nước hân hoan kỷ niệm ngày 19-8, Ngày Thành lập Lực lượng CAND, chúng tôi, những thế hệ được sinh ra sau chiến tranh đã có chuyến về nguồn tại Di tích Căn cứ Trung ương Cục (Chiến khu Đ- mật khu căn cứ, nơi ra đời các lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ) tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Những ngày ở nơi từng là vùng rừng thiêng nước độc, chúng tôi cảm nhận được hào khí thiêng liêng của "miền Đông gian lao mà anh dũng".

Cả những đổi thay, bừng sáng, ngời sức sống trên vùng đất chiến khu từng một thời hứng chịu nhiều mưa bom lửa đạn.

Người đưa chúng tôi đi tham quan "vùng đất lửa" một thời là già làng Năm Nổi (ấp Lý Lịch 1, xã Phú Lý) thủ lĩnh tinh thần của tộc người Chơro trong 2 cuộc kháng chiến. Được sinh ra và lớn lên giữa những cánh rừng "che bộ đội-vây quân thù" nên già Năm rành rẽ từng tấc đất, ngọn cây cũng như từng thời khắc lịch sử ở chiến khu Đ.

Trên đường xuyên rừng đến Di tích Trung ương Cục (địa phận xã Mã Đà), già Năm tâm tình, ngày còn sống, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mỗi khi về thăm Di tích Trung ương Cục nói riêng, chiến khu Đ nói chung thường ghé thăm "ông Năm củ chụp", một trong những biệt danh của già. Theo hồi ức của già Năm, vào những năm 1960-1961, giặc Mỹ tăng cường bao vây, đánh phá căn cứ Mã Đà. Trước tình cảnh cái đói rình rập bộ đội, cán bộ chiến khu, thay mặt tộc người Chơro, già Năm đã hiến cho cách mạng ngọn đồi củ chụp (một loại củ rừng nhiều tinh bột) nuôi quân. Biệt danh "ông Năm củ chụp" của già được hình thành từ đó.

"Sau này ra Trung ương, những khi có người Đồng Nai ra Hà Nội, Thủ tướng thường nhắn lời hỏi thăm đồng bào Lý Lịch. Có lần do bận việc không về Mã Đà, Thủ tướng gửi tặng già gói quà, ngoài bìa thư Thủ tướng ghi Gửi ông Năm củ chụp, già vẫn để treo ở nhà". Dứt lời, già Năm giọng xúc động: "Nghĩa tình của Thủ tướng Võ Văn Kiệt với lòng dân Lý Lịch sâu lắm, nặng lắm!".

Qua những ghềnh gộp, những ụ căn cứ, chúng tôi càng tiến gần Di tích Trung ương Cục hơn. Trước lối vào di tích, anh Nguyễn Văn Nhân - Trạm trưởng trạm kiểm lâm Di tích Trung ương Cục đón khách bằng nụ cười rạng rỡ và câu chuyện xúc động khi các anh vinh dự được tiếp đón Đại tướng Lê Hồng Anh, Bộ trưởng Bộ Công an vào ngày 29/4 vừa rồi. "Khoảng 9h sáng, Đại tướng cùng phu nhân đến thắp hương đền thờ, thăm viếng nghĩa trang di tích. Ngày hôm ấy Đại tướng mặc thường phục cùng phu nhân ân tình thăm hỏi sức khỏe, cuộc sống và cùng dùng bữa cơm với những món ăn chiến khu xưa như canh rau rừng, cá bắt ở suối cùng chúng tôi". Anh Nhân tâm đắc: "Đó là vinh dự lớn".

Lực lượng vũ trang quân giải phóng miền Nam Việt Nam trở về căn cứ sau chiến thắng.

Trên đường hướng dẫn khách tham quan khu di tích, anh Nhân cho biết, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo Cách mạng miền Nam, ngày 23/1/1961, Bộ Chính trị quyết định giải thể Xứ ủy Nam Bộ để thành lập Trung ương Cục miền Nam, do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư, căn cứ đóng tại suối Nhung. Từ đây những chủ trương đường lối của Trung ương, Bộ Chính trị cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam được tỏa đi khắp nơi.

Dưới chân tượng đài kỷ niệm cao hàng chục mét được tạc bằng đá quý ghi lại quá trình hình thành Trung ương Cục miền Nam giai đoạn 1961-1962 và danh sách các đồng chí lãnh đạo giai đoạn này như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ…, trong câu chuyện với những người "vừa giữ rừng vừa bảo vệ di tích" hôm ấy, những thế hệ không biết đến chiến tranh như chúng tôi rất đỗi tự hào về các chiến tích hào hùng của cha anh trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cả những chiến công từ thời kháng Pháp.

Những tư liệu lịch sử cho biết để đảm bảo an ninh chính trị cho căn cứ, chống sự xâm nhập của địch vào căn cứ cũng như những phần tử chui sâu vào hàng ngũ gây thiệt hại cho cách mạng, Ty Công an Thủ Biên đã phối hợp với lực lượng Công an huyện, các xã đội, tổ chức đoàn thể cùng phát động phong trào quần chúng giữ gìn an ninh căn cứ, xây dựng ý thức cảnh giác phòng gian.

Cũng trong thời gian này, lực lượng công báo cùng Công an tỉnh Thủ Biên đã điều tra phá án hàng loạt vụ gián điệp với các tên Đường, Khôi, Điệp, Tòng, Kia… do tổ chức Phòng Nhì của Pháp cài vào nội bộ ta. Nổi bật là vụ Mai Văn Hạo, công chức của Pháp tại Tòa hành chánh trà trộn vào cơ quan huyện Vĩnh Cửu. Được điều lên cơ quan tỉnh đóng tại Chiến khu Đ, Hạo lén cung cấp nhiều tài liệu mật, chỉ điểm cho máy bay địch đánh bom một số cơ quan làm nhiều người chết và bị thương. Hành vi mờ ám này của Hạo bị ta theo dõi phát hiện và trừng phạt bằng bản án tử hình dành cho kẻ phản bội Tổ quốc… Tình hình an ninh trong căn cứ nhờ thế được củng cố, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân càng thêm phấn khởi, tin tưởng.

Hôm ấy, tại cầu suối Nhung, chúng tôi bắt gặp nụ cười tươi của già làng Thạch Ngọc Xích, 71 tuổi, sinh quán tại huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước, từng tham gia Đội võ trang tuyên truyền Sông Bé tỉnh Thủ Biên, từng có những năm tháng sống và chiến đấu tại chiến khu Đ.

Sau những kỷ niệm về một thời gian nguy, lúc nói về sự đổi thay của vùng đất chiến khu ngày ấy, bây giờ, già Xích giọng phấn khởi: "Những năm tháng chiến tranh, cuộc sống của dân làng khổ lắm. Ngày bị bọn giặc càn bố, sẵn sàng xả súng giết chết bất kỳ ai. Đêm đêm thú dữ rình rập. Cái đói, bệnh tật đeo bám ngày đêm. Do thiếu thức ăn, thiếu thuốc, thiếu muối nên sức khỏe đồng bào, chiến sỹ rất kém, nhiều người bị chứng bệnh phù thủng, bệnh sốt rét hành hạ đau đớn và lấy đi tính mạng. Bây giờ cuộc sống sung sướng lắm, Nhà nước lo cho đồng bào không thiếu thứ gì. Ai đau bệnh thì đến trạm xá, trẻ con đến tuổi được tạo điều kiện đến trường ăn học. Cái bụng lúc nào cũng no, cái đầu lúc nào cũng khỏe do không lo chạy giặc, không sợ bị đói. Già không nghĩ có ngày được sống sung sướng, bình yên như hôm nay".

Già làng Dương Văn Dương, 72 tuổi, tâm tình: "Hồi còn chiến tranh, vào mùa nắng, sông suối cạn khô, nước uống quý lắm! Có những khi đào sâu xuống lòng suối đến hơn 20m nhưng chẳng gặp giọt nước nào, cán bộ chiến sỹ, bà con liều mình lần đến vùng địch kiểm soát để lấy nước. Mỗi chuyến đi là mỗi lần đối mặt với cái chết. Có những chuyến đi bị giặc phục kích, máu cán bộ chiến sỹ hòa cùng nước, nhiều người hy sinh. Bây giờ sống không lo thiếu nước, dân làng mặc sức ăn uống, tắm bằng nước ngọt. Chỉ riêng nước thôi già cũng thấy sung sướng rồi".

Niềm vui của tộc người Chơro bên ngôi nhà dài truyền thống.

Chúng tôi cũng có cuộc gặp gỡ, trò chuyện với ông Nguyễn Doãn Dư, Chủ tịch Hội cựu chiến binh huyện Vĩnh Cửu. Ông cho biết sau năm 1975, được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước dành cho nhiều chính sách ưu đãi mà cuộc sống của đồng bào Chơro ở ấp Lý Lịch (xã Phú Lý) có những đổi thay rõ rệt: "Từ năm 1984, khi đến công tác tại cơ sở, tôi thấy bữa cơm của đồng bào thiếu thốn mọi thứ, ăn cơm độn với khoai, bo bo, cháo bắp. Nay hình ảnh ấy đã là quá vãng. Nhiều gia đình bà con ở vùng chiến khu nay sống sung túc, đồng bào đã biết nghĩ đến khái niệm ăn ngon mặc đẹp chứ không phải ăn no mặc ấm. Ở Phú Lý có trường cấp III, có bệnh viện, có hệ thống đường liên ấp, sự đổi thay hiện rõ từng ngày".

Rời di tích Trung ương Cục, chúng tôi ghé thăm trụ sở UBND xã Mã Đà trên con đường trải nhựa rộng thoáng, hai bên đường hoa bằng lăng nở tím trời. Trên nền trời trong vắt, bóng chim hồng hoàng, loài chim xinh đẹp, kiêu sa tưởng chừng tuyệt chủng do bom đạn chiến tranh bay rợp trời, báo hiệu sự sống không chỉ hồi sinh mà còn phát triển mạnh mẽ.

Ông Huỳnh Ngọc Yên, Phó Chủ tịch UBND xã cho biết xã Mã Đà được thành lập từ năm 2003 với 100% dân số là dân tứ xứ. Ngay tại thời điểm này, tuy vẫn còn nhiều khó khăn nhưng Mã Đà đã có nhiều thay đổi. Do được Nhà nước quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện sinh sống, làm ăn nên vấn đề vi phạm lâm luật trong các hộ dân giảm hẳn. Ngày trước kiếm 1 chiếc xe honda rất hiếm, nay trên 95% hộ dân có xe gắn máy, số hộ có phương tiện nghe nhìn đến 98%. Tỷ lệ hộ dân sử dụng điện thoại di động trên 90%.

Ông Đinh Quốc Sơn, Trưởng Công an xã Mã Đà, cho biết, tiếp nối truyền thống bất khuất của cha ông, lực lượng Công an xã luôn bám vào dân, lấy dân là nòng cốt trong việc bảo vệ an ninh trật tự tại địa phương. Nhờ vậy mà nhiều năm qua xã Mã Đà luôn giữ được danh hiệu xã văn hóa lành mạnh không có tệ nạn ma túy, tệ nạn mại dâm. "Trong kháng chiến, đồng bào một lòng theo bộ đội đánh Pháp đuổi Mỹ đến ngày đất nước toàn thắng thì trong thời bình, đồng bào hết lòng hỗ trợ lực lượng Công an giữ vững an ninh trật tự. Hầu hết các vụ trọng án xảy ra tại Mã Đà được phá nhờ có sự góp sức đắc lực của người dân. Tại cuộc thi Công an xã giỏi năm 2010 vừa qua, Công an xã Mã Đà đoạt giải nhất toàn huyện và giải nhì cấp tỉnh" - Thượng tá Lê Thanh Tòng, Phó trưởng Công an huyện Vĩnh Cửu, tự hào cho biết.

Khó có thể nói hết những đổi thay, bừng sáng của đồng bào dân tộc Chơro - tộc người bất khuất kiên cường giàu lòng yêu nước ở xã Phú Lý và sự bứt phá, chiến thắng đói nghèo của người dân xã Mã Đà trên vùng đất chiến khu Đ. Vùng đất khốc liệt đầy hố bom vỏ đạn đang thay da đổi thịt, đổi thay từng ngày. Điều này được minh chứng rõ bằng những nụ cười rạng rỡ tin yêu vào cuộc sống của những cư dân vùng đất chiến khu và màu xanh ngút ngàn của những cánh rừng trên các hố bom nham nhở từng một thời được mệnh danh là "vùng đất chết"

Nguyễn Thành Dũng (Báo CAND số 19-8)
.
.
.