Nhân vụ án "Lexomil" nói về tác hại của bromazepam
Để hiểu rõ hơn bản án 18 năm tù giam của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đối với Đào Ánh Tuyết, phạm tội buôn bán chất ma túy, cần phải làm rõ hai vấn đề về tác dụng y học của chất benzodiazepin và pháp luật trong mối quan hệ tổng thể.
Thứ nhất về tác dụng y học, hoạt chất bromazepam thuộc nhóm thuốc hướng thần benzodiazepin, có tác dụng an thần, gây ngủ, chống co giật, làm giãn cơ do tác động thần kinh trung ương; được dùng trong y học để điều trị bệnh, đặc biệt là chuyên khoa thần kinh, tâm thần.
Hoạt chất bromazepam là thành phần chính có trong 74 biệt dược (tên thuốc) khác nhau trên thị trường thế giới. Biệt dược là tên do hãng sản xuất đặt, không phải là tên hóa học của một hay nhiều hoạt chất có trong thuốc và đơn thuần là tên thương mại.
Nhưng các chất hướng thần lại có trong danh mục các chất phải quản lý theo Công ước quốc tế năm 1971 của Liên Hiệp Quốc vì những lý do: ngoài tác dụng chính để chữa bệnh, các thuốc này còn gây ra các tác hại về thần kinh như: trạng thái nói huyên thuyên, lo sợ vô cớ, nhịp tim nhanh, đổ mồ hôi, quên, bồn chồn, ảo giác, dễ bị kích thích... Một số bệnh nhân còn phát sinh cảm xúc thù hận, hoặc cơn thịnh nộ dẫn đến những hành vi không kiềm chế và kiểm soát được.
Từ năm 2003, việc nhập khẩu, buôn bán hàng chục chất thuộc nhóm benzodiazepin trở nên khá tấp nập. Tháng 6/2003, Đào Ánh Tuyết mang 95.000 viên thuốc hướng thần lexomil vào Việt Nam qua cửa khẩu Cầu Treo, Hà Tĩnh. Tháng 8/2003, trên đường bay từ Pháp về qua cửa khẩu Nội Bài, An ninh sân bay đã phát hiện 7 kiện hàng lớn với hàng vạn viên thuốc có chứa các chất hướng thần: alprazolam, bromazepam, clornazepam, clorazepat, lorazepam, nordazepam, tetrazepam, zolpidem... Cũng trong tháng này, tại cửa khẩu Kiên Giang 20.000 ống diazepam (biệt dược ropam) và 50.400 viên cloazepat (biệt dược tranxene) đều là thuốc hướng thần cũng bị bắt giữ. Tại cửa khẩu Tân Sơn Nhất, tháng 9/2003 cơ quan chức năng bắt giữ 2.725 viên thuốc gây nghiện và 5.882 viên thuốc hướng thần các loại. Tháng 10/2003 cũng tại cửa khẩu này 2.915 viên thuốc gây nghiện, 9.600 viên thuốc có chứa các chất hướng thần khác nhau đã được phát hiện.
Tuy rằng hiếm và phụ thuộc liều dùng nhưng trạng thái hoang tưởng, trầm cảm và ý tưởng tự sát đôi khi xuất hiện ở một số người. Nhóm này gây ra sự lạm dụng thuốc và nghiện thuốc chậm, nhưng khi sử dụng thuốc một thời gian dài có thể gây ra các triệu chứng bất lợi kể trên. Bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng mất ngủ, sợ hãi, rối loạn giọng nói, cơ thể yếu ớt, dễ chóng mặt, choáng váng... vì thế bác sĩ phải dùng các liều điều trị gián đoạn. Một số bệnh nhân tự dùng liều tăng lên đã nghiện thuốc. Nếu dùng liều cao trong một thời gian dài, khi ngừng thuốc đột ngột sẽ gây ra các trạng thái bối rối, lo âu, trầm cảm, hoảng loạn, hoang tưởng, đau cơ, co cơ, co giật, tình trạng mê sảng. Tổ chức nghiên cứu WOOD (1992) đã thông báo về sự gây nghiện của loại thuốc loại này. Do vậy, hầu hết các nước đều có những chế tài quy định nghiêm ngặt việc điều trị, bán thuốc và người dùng.
Nguy hiểm hơn khi dùng nhóm thuốc này với thuốc phiện hoặc nhóm opioid sẽ làm tăng mức độ nguy hiểm. Nhóm thuốc này thường bị bọn tội phạm lợi dụng để gây mê, gây ngủ rồi chiếm đoạt tài sản của công dân. Vì thế không thể nói các chất hướng thần không gây nguy hiểm cho xã hội như ý kiến của một số người.
Các thuốc có chứa nhóm chất này được bán theo đơn trên thị trường hợp pháp, nhưng việc lạm dụng chúng đã trở nên phổ biến và gây ra những tác hại cho người sử dụng và xã hội. Do vậy, các chất nhóm benzodiazepin được đặt dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của ngành y tế và đặc biệt được kiểm soát theo Công ước quốc tế về các chất ma túy và hướng thần năm 1971. Ví dụ, chất diazepam là tên được quốc tế công nhận, có trên 430 tên biệt dược khác nhau như seduxen, valium...) là một chất thuộc nhóm benzodiazepin được sử dụng rộng rãi và nhiều nhất từ trước đến nay trên thế giới.
Thực tế đấu tranh phòng chống ma túy ở nước ta từ năm 1995 đến nay cho thấy: Việc nhập khẩu, buôn bán trái phép hàng triệu viên hoặc ống tiêm thuốc hướng thần, trong đó có diazepam, đã làm tăng nhanh số người lệ thuộc vào thuốc (dùng riêng hoặc kết hợp với thuốc phiện). Do đó, Bộ Y tế đã đưa ra những quy định quản lý chặt chẽ.
Việc lạm dụng thuốc không theo quy định của Bộ Y tế được coi là vi phạm Luật Phòng chống ma túy. Do việc các lực lượng chức năng kiểm soát có hiệu quả việc lưu thông diazepam, đặc biệt nguồn từ biên giới phía bắc vào Việt Nam, nên bọn tội phạm ma túy đã thay đổi nguồn hàng bằng cách chuyển hướng sang nhập khẩu, buôn bán bất hợp pháp các chất hướng thần khác cùng nhóm này nhằm thay thế cho diazepam, gây khó khăn cho sự kiểm soát của các cơ quan chức năng.
Về mặt pháp lý cần nhấn mạnh rằng, theo Điều 2 Luật Phòng chống ma túy, cần phải hiểu khi dùng từ “thuốc” tức là nói đến mục đích sử dụng trong y học cho việc điều trị và phải tuân theo các quy định quản lý của Bộ Y tế, còn khi gọi là “chất” cần được hiểu là một hay nhiều chất hóa học chứa trong thuốc, đồng thời về mặt luật pháp cần phải hiểu “chất hướng thần” thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng chống ma túy.
Trong bối cảnh hiện nay, việc dùng các chất hướng thần khác thay cho diazepam, cần phải được vạch trần trước dư luận, là phạm Luật phòng chống ma túy và phải được kịp thời ngăn chặn. Đáng tiếc, một số người không hiểu biết về lĩnh vực này hoặc số người khác có kiến thức chuyên môn lại cố tình lý luận lòng vòng: “Biệt dược lexomil không phải là chất ma túy” hoặc “trong luật và nghị định không có tên lexomil” để lập luận rằng mua bán chất hướng thần bromazepam chỉ phạm tội buôn lậu, không phạm tội về ma túy.
Cũng cần nhấn mạnh trong vụ Đào Ánh Tuyết, ngoài thuốc lexomil có chứa bromazepam thì thuốc hướng thần valium (chứa diazepam) cũng được buôn bán bất hợp pháp. Đáng trách hơn là họ không chỉ thu lời lớn trên thân xác những con nghiện mà còn là những kẻ tiêu thụ thuốc sắp hết hạn cho các hãng thuốc nước ngoài.
Thuốc lexomil có chứa chất bromazepam là chất hướng thần có trong danh mục quản lý theo Luật Phòng chống ma túy của Việt
