Nhà khoa học trẻ phá bom từ trường được Giải thưởng Hồ Chí Minh

Thứ Tư, 10/08/2005, 07:41
Vốn thông minh, học giỏi, lại chịu khó nên mới 26 tuổi, Hoàng Kim Giao đã có hai bằng đại học, sử dụng thành thạo tiếng Trung Quốc và tiếng Nga. Nhưng chiến tranh đã cướp đi cuộc đời của nhà khoa học trẻ, khi mà bao khát vọng cống hiến của anh vẫn còn dang dở. Gần 30 năm sau, công trình anh tham gia nghiên cứu đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý.

Nhà khoa học trẻ ấy là Thiếu úy, kỹ sư Hoàng Kim Giao (1941-1968). Anh đã sống, chiến đấu như một người Cộng sản mẫu mực và hy sinh anh dũng ngoài mặt trận như một người anh hùng! Gần 40 năm sau, cái chết oanh liệt của nhà khoa học trẻ đã được những người bạn cùng chiến đấu với anh làm sáng tỏ...

Say mê công việc và nghiên cứu tới quên ăn quên ngủ

Hoàng Kim Giao sinh năm 1941 (tuổi Tân Tỵ) tại Hải Phòng. Trong kháng chiến chống Pháp, cậu bé Giao theo cha mẹ lên chiến khu Việt Bắc, rồi được gửi đi học tại Trường Thiếu sinh quân ở Quế Lâm - Trung Quốc trong 7 năm (1952 – 1959). Những năm 1961 – 1965, anh được Quân đội gửi vào học ở Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (chuyên ngành Vật lý hạt nhân), đồng thời là học viên Trường Sĩ quan Kỹ thuật của Quân đội... Thông minh, học giỏi, lại chịu khó, nên mới 26 tuổi, Hoàng Kim Giao đã có hai bằng đại học. Sau khi được điều về công tác tại Cục Nghiên cứu Kỹ thuật, thuộc Tổng cục Hậu cần - Bộ Quốc phòng (nay là Phân viện Điện tử - Viễn thông, thuộc Viện Kỹ thuật Quân sự - Bộ Quốc phòng), Hoàng Kim Giao còn tranh thủ học thêm về chuyên ngành vô tuyến điện ở Đại học Bách khoa Hà Nội.

Nhận rõ khả năng phát triển của người cán bộ trẻ, Quân đội đang chuẩn bị cho anh đi nghiên cứu sinh tại Liên Xô... Cũng trong thời gian này, Hoàng Kim Giao tự học các thứ tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha... Anh quyết tâm nắm vững các ngoại ngữ này. Tủ sách riêng của anh có hàng ngàn quyển, chất đầy các loại từ điển và ngoại ngữ.

Nhưng đó cũng là thời điểm không quân Mỹ đánh phá ác liệt miền Bắc nước ta. Hàng triệu tấn bom đạn đã trút xuống các tuyến giao thông huyết mạch trên đất liền và cả trên biển; trong đó có nhiều loại vũ khí hiện đại nhất hồi ấy như bom từ trường và thủy lôi từ tính nổ chậm, để ngăn chặn các phương tiện vận tải của ta phục vụ hậu cần cho kháng chiến... Điều đó đã khiến cho giao thông đường bộ, đường thủy của ta gặp không ít khó khăn và thiệt hại.

Một nhóm kỹ sư của Cục Nghiên cứu Kỹ thuật trong đó có Hoàng Kim Giao, được giao nhiệm vụ nghiên cứu tìm giải pháp công nghệ cho công trình “Phá thủy lôi từ tính và bom từ trường bảo đảm giao thông 1967 – 1972”. Đây là một trong những công trình khoa học do Bộ Quốc phòng chủ trì, mang tính sống còn của ngành Giao thông vận tải miền Bắc hồi đó, nên nó đã được tuyệt đối giữ bí mật. Mỗi nhóm nghiên cứu chỉ được biết riêng nhiệm vụ của mình. Tham gia đề tài khoa học này, có những người rất nổi tiếng như GS - TS Đàm Trung Đồn, TS Trịnh Đông A...

Riêng Hoàng Kim Giao, anh say mê công việc nghiên cứu tới quên ăn, quên ngủ. Người nhà kể lại: Có lần, Giao được đơn vị cử về huyện Thủy Nguyên gần nhà để sửa chữa một dàn rađa bị trục trặc của một đơn vị tên lửa. Giấy công tác của đơn vị cho phép thời gian là 7 ngày, nhưng vốn thông minh lại chăm chỉ, nên chỉ 2 ngày anh đã xong nhiệm vụ. Lẽ ra, Giao có quyền được nghỉ ngơi tại nhà 5 ngày còn lại, nhưng anh chỉ rẽ qua nhà thăm bố mẹ và các em. “Nhiệm vụ chiến đấu rất khẩn trương, nhiều công việc đang chờ con, về đơn vị sớm giờ nào, đỡ cho đồng chí, đồng đội khó khăn giờ đó” – Anh nói vậy rồi vội vàng trở về đơn vị công tác ngay.

Trước ngày ra chiến trường, Giao được đơn vị cho nghỉ phép. Nhưng anh chưa hết đợt phép, thì Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo cơn bão số 7 sắp tràn về. Đó là cơn bão lớn của năm 1968 đã đổ bộ vào khu vực Hải Phòng và các tỉnh lân cận. Lo ngại mưa lớn sẽ làm tắc đường, không lên được đơn vị đúng hẹn, Giao đã quyết định lấy xe đạp đi suốt đêm để trở về đơn vị. Cả gia đình ngăn sao cũng không được, người cha đành yêu cầu cậu em trai đạp xe cùng anh Giao. Đêm ấy, họ đã gặp bão giữa đường. Mưa to, gió thổi mạnh, cả hai anh em đều ướt hết và ngã xe đạp nhiều lần.

Tới đơn vị lúc 9 giờ sáng hôm sau, Giao lại lao vào làm việc ngay để chống bão, suốt đêm thu xếp tài liệu, lặn lội lái xe không ngủ... Hậu quả của sự cố gắng quá sức đó là anh đã bị cảm, sốt mê man mấy ngày liền và ốm nửa tháng trời.

“Cần phải sống, nhưng không thể từ bỏ, hay trốn tránh những hy sinh cần thiết!”

Từ lý thuyết đến thực hành là cả vấn đề cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành công của mỗi đề tài khoa học. Trong điều kiện chiến tranh còn nhiều thiếu thốn, cuối tháng 9/1968, mặc dù chưa hoàn toàn bình phục sau trận ốm vì gặp mưa bão, Hoàng Kim Giao vẫn xung phong dẫn một đoàn công tác đặc biệt trực tiếp vào chiến trường Khu IV, để thực hành nghiên cứu cách tháo gỡ các loại bom từ trường mới nhất của địch vừa ném xuống chiến trường, thu chiến lợi phẩm về nghiên cứu; đồng thời, huấn luyện hướng dẫn cho bộ đội và thanh niên xung phong các đơn vị địa phương phá bom từ trường nổ chậm. Đoàn gồm 6 người, do Thiếu úy Hoàng Kim Giao làm trưởng đoàn, và Hạ sĩ Lưu Tuấn Kiệt (hiện là nhà thơ, sống và làm việc tại tỉnh Hưng Yên) làm phó đoàn. Ngoài ra còn có các chiến sĩ: Cư, Tước, Thái và Tín.

Từ Hà Nội, đoàn công tác đặc biệt được bố trí đi nhờ xe của một vị tướng đi đường tắt để vào miền Trung. Tới Tân Kỳ (Nghệ An), thì hết đường ôtô. Theo yêu cầu gấp rút của chiến trường, để cơ động nhanh và an toàn, đoàn công tác đã được Bộ Tư lệnh 500 “ưu tiên đặc cách” cấp tạm thời mỗi người một chiếc... xe đạp “Vĩnh Cửu” của Trung Quốc – Một phương tiện cá nhân rất quý hiếm hồi đó. Nhưng gay go nhất là Phó đoàn Lưu Tuấn Kiệt lại không biết đi xe đạp! Anh em phải cấp tốc tập xe đạp cho Kiệt. Sau hơn một giờ, anh này ngồi lên đạp được, dù chưa vững, nhưng đoàn vẫn phải lên đường ngay. Những ngày đầu, Kiệt được ưu tiên đi xe không (không phải thồ hàng), vậy mà anh vẫn ngã sưng hết đầu gối, có lần còn đâm cả người và xe xuống hố bom đầy nước, làm cả bọc lương khô của đoàn bị ướt. Anh em tiếc rẻ, phải động viên nhau ăn lương “khổ” trừ bữa.

Hồi đó, Khu IV được mệnh danh là “tuyến lửa”, với những “nút” giao thông quan trọng, đã tạo nên những trọng điểm đánh phá ác liệt nhất của không quân Mỹ. Những địa danh như: Đồng Lộc, Ô Dước, Truông Bồn, Khe Tang, Khe Ve... đã hằn sâu trong ký ức về bom đạn của những người đã đi qua đó trong chiến tranh dù chỉ một lần. --PageBreak--

Trong lá thư cuối cùng gửi về cho cha mẹ trước khi hy sinh, Hoàng Kim Giao viết có đoạn:“Từ 29/9 con bắt đầu đi vào khu 4. Hiện giờ con đang ở Hà Tĩnh và sắp tới con sẽ đi vào Quảng Bình và sâu hơn chút nữa... Cùng đi với con còn có 5 đồng chí chiến sĩ nữa. Đi để thu thập chiến lợi phẩm và phá bom nổ chậm. Một tháng qua con đã phải đi khá nhiều đường đất vất vả và cả đói nữa, nhưng cũng có nhiều điều đáng mừng.

Con được đi tới những vùng ác liệt nhất của chiến trường khu 4. Ở đây, có những quãng chỉ 2 km mà địch đã trút xuống 5.000 quả bom! Ở đây, có những đội thanh niên xung phong cùng với mặt đường phải chịu từng ấy bom đạn và trong đội ngũ kiên cường đó những chiến sĩ phá bom là những người được yêu quý nhất. Có những lúc chúng con phải phá bom trên sông, trước mặt bao cảnh thương vong. Vì bom đạn giặc, con vẫn dẫn đầu anh em bơi lội trên sông, phá thông luồng lạch, tạo một niềm tin vững chắc cho các chiến sĩ giao thông.

Có những lúc chúng con phải phá bom mở đường ở các trọng điểm đánh phá trên bộ, dưới làn bom đạn dày đặc của máy bay giặc Mỹ. Bị sức ép nhiều lần, anh em thương vong gần hết, nhưng con của cậu mợ vẫn vững vàng tổ chức các đồng chí Đảng viên gan dạ nhất phá sạch bom đạn giặc, cho xe thông đúng 12 giờ sau lệnh ngừng bắn. Anh em lái xe trên tuyến đường này đã dành cho chúng con những phần thưởng rất đáng quý.

Dù đứng giữa bãi bom của địch, hay dưới làn mưa đạn máy bay, con của cậu mợ vẫn vững vàng tiến lên phía trước.

Cậu mợ ạ, ở đây chuyện sống chết đặt ra không phải từng ngày, mà từng giờ một. Có đồng chí vừa thăm con, nửa tiếng sau đã bị hy sinh. Có lúc con đã phải động viên sự hy sinh của từng người. Những lúc đó, như mọi người, con cũng nghĩ tới chuyện sống chết. Con nghĩ nếu con hy sinh thì trước mắt sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, không đầy đủ trách nhiệm với các đồng chí cùng đi. Cậu mợ và các em con sẽ thương nhớ con nhiều. Sức khỏe của cậu mợ cũng mau bị giảm sút. Tuy vậy không phải lúc nào con cũng được cân nhắc tới chuyện sống chết. Bởi con nghĩ rằng cần phải sống, nhưng không thể từ bỏ hay trốn tránh những hy sinh cần thiết! Và lúc đó con lại vững vàng tự tin đứng giữa bãi bom...

Lệnh ngừng bắn đã tạo cho chúng con thuận lợi lớn trong công tác, nhưng những hy sinh của các chiến sĩ phá bom vẫn còn tiếp tục. Mỗi khi đứng trước những quả bom nổ chậm, hay chờ tiếng bộc phá nổ, con thường nghĩ tới cậu mợ, tới các em ở xa...

Cậu mợ và các em có biết con sẽ thế nào không, nếu quả bom nổ?

Những lúc đứng giữa cảnh chết chóc hoang tàn đó, con nghĩ nhiều đến hạnh phúc gia đình, nghĩ tới ngày sum họp, nghĩ tới những ngày hòa bình và con ước mơ ngày về gặp mặt cậu mợ và các em...”.

Nhưng Hoàng Kim Giao đã không bao giờ trở về nữa. Đoàn công tác đặc biệt của anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hướng dẫn cho các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong tháo gỡ và phá được hàng ngàn quả bom nguy hiểm. Riêng Hoàng Kim Giao đã trực tiếp hàng trăm lần đối mặt với tử thần, phá được 72 quả bom nổ chậm, trong đó có 40 quả bom từ trường. Nhưng định mệnh nghiệt ngã đã đến với nhà khoa học trẻ vào ngày cuối cùng của năm 1968. Anh hy sinh khi bao dự định, ước mơ về các công trình nghiên cứu còn dang dở...

 Nhưng cái chết đầy bi tráng của nhà khoa học trẻ cho mãi tới 37 năm sau mới được chính các đồng đội của anh làm sáng tỏ...

Về “tuyến lửa” năm xưa tìm nhân chứng và sự thật

Đây là một đoạn thư của chị Nguyễn Thị Lan, vợ liệt sĩ Hoàng Kim Giao gửi cho bố mẹ chồng ngày 8/3/1969 (sau ngày anh Giao hy sinh hơn 2 tháng):

“Thưa cậu mợ, khi con vào đơn vị, đồng chí Khánh thủ trưởng của anh Giao đã kể chuyện cho con nghe tình hình công tác và gương hy sinh của anh Giao:

...Khi đoàn đến Hà Tĩnh, địch thả bom chặn đường giao thông, 500 chiếc xe bị ứ đọng. Vì am hiểu kỹ thuật, anh Giao đã lên trên mặt đường một mình để phá bom. Lúc đó địch đến ném bom tiếp, anh đã di chuyển từ hố bom này sang hố bom khác cách nhau 10 mét. Bị sức ép nhiều lần nhưng anh vẫn tiếp tục phá được nhiều bom, anh em trong đoàn và một số đơn vị bạn, các đơn vị thanh niên xung phong thấy tin tưởng vào kỹ thuật đã lên mặt đường cùng phá bom với anh Giao.

Lợi dụng đêm sáng trăng, anh Giao đã tổ chức cho anh em phá bom đến 3 giờ sáng và giải phóng được đoàn xe đi an toàn. Hôm sau được tin ngừng bắn, nhưng địch đã mang bom cố chặn đường giao thông của ta. Anh em trong đoàn rất hoang mang, có người tỏ ra rất bi quan. Anh Giao đã động viên anh em và lên đường phá bom một mình, mãi mới động viên được một đồng chí lên đường làm cùng với anh Giao. Do gương dũng cảm và thấy kết quả nên mọi người khác lại làm theo.

 Có lần địch thả bom trên sông, anh Giao đã nhảy xuống sông để phá bom trước mọi người... Nhân dân địa phương và các đơn vị bạn đã học tập gương dũng cảm của anh từ khi còn sống”...

Cũng lá thư trên, còn có đoạn nói về sự hy sinh của Hoàng Kim Giao như sau:

“Cuối tháng 12/1968, đoàn của anh Giao được lệnh của cấp trên gọi về ra Hà Nội báo cáo kết quả chuyến công tác. Ngày 30-12, đoàn tới địa phận xã Nam Hưng (Nam Đàn, Nghệ An), thấy Đảng bộ cùng nhân dân địa phương cần phá một số bom đang làm cản trở việc sản xuất, anh đã quyết định cho đoàn dừng lại...

 Đã phá được nhiều bom, nhưng chưa lần nào ở Nam Hưng lại gặp một trường hợp khó như thế: Có một quả bom cắm dọc, nửa dưới đất, nửa trên mặt đường, dù đã 3 lần nhân dân địa phương dùng bộc phá để phá nhưng bom không nổ. Lần thứ tư, anh Giao phá theo phương pháp mới, bom vẫn không nổ.

Anh Giao đã quyết định phá quả bom này bằng phương pháp cổ truyền. Sau khi trực tiếp vào đào hố, làm lộ quả bom xong, anh ngồi bên cạnh quả bom và ra hiệu cho người lái xe mang bộc phá vào. Nhưng khi anh lái xe chỉ còn cách mục tiêu khoảng 2 mét thì quả bom bất ngờ phát nổ...

(Còn tiếp)

.
.
.