“Nếu thu hổ nhà thả về rừng… sẽ chẳng còn con nào!”

Thứ Tư, 14/02/2007, 09:48

“Hổ nhà đâu có khôn ngoan như hổ hoang dã. Nếu thả hổ nuôi vào các khu rừng của Việt Nam thì một thời gian ngắn sau chẳng còn con nào thoát khỏi tay những kẻ săn trộm!", PGS.TS Trần Hồng Việt, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu động vật ẩn sinh và động vật quý hiếm Việt Nam, nói.

Cục kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn) đã công khai với báo chí việc sẽ tiến hành thu số hổ hiện còn được nuôi ở các gia đình để thả về rừng. Vấn đề này đã gây nhiều phản ứng khác nhau với các nhà khoa học cũng như những người có tâm trong việc bảo tồn loài động vật quý hiếm này trước nguy cơ tuyệt chủng.

PV Chuyên đề ANTG đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Trần Hồng Việt, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu động vật ẩn sinh và động vật quý hiếm Việt Nam. Nhà khoa học tuổi thất thập này rất bức xúc với quyết định "chưa được tính toán kỹ lưỡng" (theo lời của ông) này.

- Là một nhà khoa học chuyên nghiên cứu về các loài động vật quý hiếm, xin ông cho biết thực trạng của loài hổ ở Việt Nam hiện nay?

- Hổ Việt Nam thuộc nhóm hổ Đông Dương (tên khoa học là Panthera Tigris Corbetli). Cách đây chừng nửa thế kỷ, hổ ở Việt Nam còn nhiều, địa bàn sinh sống trải rộng từ Hòa Bình tới Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hòa.

Hiện nay, vùng sống của hổ ở nước ta bị thu hẹp nhiều, số lượng giảm sút nghiêm trọng, ước tính chỉ còn xấp xỉ 200 con (kể cả số hổ nuôi tại nhà và các vườn thú, rạp xiếc), tập trung chủ yếu ở các khu rừng phía Nam, nhất là rừng đại ngàn Tây Nguyên.

- Những gần 200 con! Cơ sở nào để khẳng định, thưa ông?

- Có một vài ý kiến cho rằng hổ Đông Dương sẽ tuyệt chủng vào cuối thập kỷ này, đó là một ý kiến hoàn toàn không chính xác. Tôi nói vậy là có cơ sở. Tôi đã đi thực địa mấy chục năm nay và rất nhiều chuyến đi tôi tiếp cận với hổ.

Năm 1983, đoàn chúng tôi đi nghiên cứu ở 3 xã là Rờ Cơi, Mô Rai và Sa Sơn (thuộc huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum), thì thợ săn ở 3 xã đó trong năm ấy săn được 8 con. Sau đó, chúng tôi đến khu rừng tranh ở huyện Đắc Sú, bắt gặp 4 con hổ con, có lẽ mẹ nó đang mải đi kiếm mồi.

Cũng khoảng thời gian gần đó, khu vực Tây Nguyên đã bắn được một con hổ lớn. Đó là con hổ duy nhất các nhà khoa học của Việt Nam bắn được, hiện mẫu của nó được cất giữ tại Bảo tàng Đại học Tổng hợp.

- Ông có thể nói rõ hơn về những đặc tính của loài hổ ở Việt Nam?

- Hổ ở Việt Nam nói riêng và cả khu vực Đông Dương nói chung, nhỏ hơn hổ Liên Xô, Trung Quốc... Thông thường mỗi con hổ Liên Xô nặng đến 300kg, hổ Việt Nam chỉ từ 90-200kg, có một con nặng gần 280kg không biết giờ ở đâu. Chiều dài của một con hổ trưởng thành  tính từ đầu đến mút đuôi chừng 3m. Hổ ở miền Nam vằn lông đậm hơn ở miền Bắc là do thời tiết trong Nam nóng.

Chúng thích sống lang thang, hoang dã ở những vùng cỏ tranh và các khu rừng già, thưa, không chịu được nóng và không chịu được lạnh. Nhưng một đặc điểm nổi bật là chúng thường chọn những con đường thoáng, rộng để đi nên người dân Kon Tum thường hay bắt gặp chúng đi trên đường Hồ Chí Minh là vì thế. Mỗi một con hổ có thể nhảy cao đến 8m và tung vật nặng 100kg xa từ 15-20m, có thể bẻ gãy cổ một con trâu lớn và kéo vào rừng.

Hổ ăn thịt và ăn khá tạp. Ngoài thịt của một số loài mang bộ guốc như hươu, nai, trâu, lợn là món “khoái khẩu”, chúng có thể ăn cá, ếch, nhái, chuột. Ngoài thịt tươi sống chúng có thể xơi cả thịt thối rữa miễn là no bụng. Chúng thường đi kiếm ăn từ 17 giờ  hôm trước đến 1 giờ sáng hôm sau, có khi lang thang suốt cả sáng ngày hôm sau và việc chúng đi ngủ hay không là tùy thuộc vào cái bụng của chúng.

- Từ những đặc tính như vậy, thì việc nuôi, tốt và không tốt cho loài hổ như thế nào, thưa ông?

- Trước hết tôi khẳng định, hổ có thể nuôi được (tôi hoàn toàn bài xích việc nuôi với mục đích buôn bán và giết thịt). Tính cách của chúng là hoang dã, dữ dằn nhưng khi nuôi, hoàn toàn có thể thuần dưỡng được nếu như nuôi từ nhỏ.

Còn việc tốt và không tốt với việc nuôi hổ ở Việt Nam, tôi có ý kiến thế này, cái được nhất là bảo tồn nguồn gien quý hiếm trước bờ vực của sự tuyệt chủng. Tôi thực sự khâm phục cái anh ở Bình Dương, nuôi 19 con hổ và không những nuôi mà còn chăm sóc để chúng sinh sản được, đấy là một điều hiếm thấy. Còn cái không tốt, dĩ nhiên động vật thì cần thiên nhiên, và phải có thiên nhiên để trả chúng về đúng đặc điểm của chúng. Tuy nhiên, điều này ở Việt Nam, điều cần thiết phải nói lúc này là bảo tồn nguồn gien bằng mọi giá.

Việc nuôi hổ, khi hổ sinh sản, ví dụ được 4 con có thể bảo toàn được cả 4. Nhưng nếu trong môi trường thiên nhiên may ra chỉ sống sót 1, bởi ngay cả “cha đẻ” của chúng có thể ăn thịt chúng. Đó cũng là một nguyên nhân để loài hổ hoang dã số lượng ngày một ít đi. Còn việc nuôi, chẳng hạn như loài sơn dương chẳng hạn, một loài tưởng chừng đã xóa sổ nhưng nhờ nuôi mà bây giờ đã hồi sinh trở lại ở các khu rừng Hà Tĩnh đấy.

-  Vậy thưa ông, những con hổ đã nuôi trưởng thành, thì có thể huấn luyện được đặc tính hoang dã trở lại để trả nó về với đại ngàn của chúng?

- Điều này thì không bao giờ được. Một con hổ con để thuần dưỡng còn khó nói gì đến việc huấn luyện hổ lớn thành hoang dã. Không ai làm thế bao giờ với những con hổ đã trưởng thành.

-  Ở tỉnh Hắc Long Giang (Trung Quốc), người ta đã huấn luyện và thả 40 con hổ về rừng. Ý kiến về việc này thế nào?

-  Điều này tôi xin đính chính, đó là 40 con hổ con mới 1 tháng tuổi. Họ đã tiến hành bồi dưỡng khả năng thích ứng với thiên nhiên cho hổ con ngay từ nhỏ, trong môi trường thiên nhiên thực sự và với những chuyên gia giỏi và tâm huyết.

-  Vậy thì ở Việt Nam, việc này khó thực hiện đối với cả hổ con chứ chưa nói gì đến hổ lớn, thưa ông?

- Tôi cho rằng việc huấn luyện hổ con ở Việt Nam để trả về thiên nhiên bây giờ đang là một việc "đem con bỏ chợ". Để huấn luyện thì phải có chuyên gia giỏi, có sự khoanh vùng thiên nhiên. Hai điều này ở nước ta, tôi chưa được biết và cũng chưa nghe thấy.

Bản năng tự nhiên của loài hổ chỉ được dạy từ hổ mẹ. Những con hổ đã trưởng thành không thể học được. Chính vì vậy, tôi càng khẳng định, hổ ở Việt Nam hiện tại khó có thể dạy được để trả về tự nhiên.

Chúng ta đã nếm quá nhiều bài học cay đắng về việc “đem con bỏ chợ” như thế. Hẳn chưa ai quên một địa phương đưa voi nhà thả vào rừng, qua một đêm chỉ còn lại... cái xác, đôi ngà bị cưa mất. Và hẳn nhiều người, nhất là trong giới kiểm lâm đều biết, tại sao kiểm lâm thả thú trở lại rừng thì người dân lại bịt miệng cười, bởi vì họ biết thả ra chưa đầy một tiếng đồng hồ thì chẳng còn con nào nữa.

- Thưa ông, ông có nghe dư luận về việc tiến hành thu hổ nuôi để “trả lại rừng” ở Việt Nam?

- Tôi có nghe. Điều đầu tiên tôi muốn nói, nếu đơn thuần xét từ góc độ đấu tranh sinh tồn, thì việc thả hổ ở Việt Nam là thuận lợi vì hổ hoang dã đã không còn nhiều nên địa bàn hoạt động của các con hổ được thả là rộng. Nhưng tín hiệu tạm gọi là đáng mừng ấy chỉ là 0,1% so với độ lớn của những hiểm họa đối với những con hổ được “trả tự do”.

Như tôi đã nói ở trên, các con hổ nuôi của Việt Nam hiện đã lớn, việc huấn luyện sự thích nghi trong môi trường tự nhiên để tiến hành việc thả khó có thể thực hiện. Còn những con hổ nhỏ, có thể huấn luyện được, nhưng chuyên gia ở đâu? Và khu thiên nhiên để tập sự thích nghi của chúng một cách biệt lập ở đâu? Tại sao ta chỉ nghĩ đến việc thả mà không tính đến rằng, để thả một con hổ về rừng, xét về góc độ khoa học không hề đơn giản?

Đấy là tôi chưa nói đến, dù súng kíp đã được tiến hành thu ở một số địa phương, nhưng những chiếc bẫy tinh vi thì ai thu? Hổ thả về có thể khoảng 50 con, nhưng có đến hàng ngàn chiếc bẫy đang giăng chờ chúng. Mà hổ nhà thì đâu có khôn ngoan được như hổ hoang dã, lơ ngơ dính bẫy là điều không tránh khỏi. Và nữa, những bảng giá mê hoặc của các bộ xương hổ sẽ khiến những kẻ săn trộm không từ thủ đoạn nào để bắt hổ... Tôi khẳng định rằng bây giờ nếu thả hổ nuôi vào các khu rừng của Việt Nam thì một thời gian ngắn sau chẳng còn con nào!

- Còn một điều phải tính đến là khả năng tìm kiếm thức ăn và nguy cơ bệnh tật với những con hổ này khi thay đổi môi trường sống, ông có thể cho biết thêm?

-  Đấy, nếu như vậy khu rừng của chúng ta có thêm nhiều chú hổ khả năng vồ mồi kém, một nguy cơ đe dọa trực tiếp sau những hiểm họa đó là chết đói. Dĩ nhiên với đặc tính và bản năng của loài hổ, chúng vẫn có thể tìm kiếm được thức ăn nhưng thức ăn ở các khu rừng của Việt Nam, ai cũng biết là quá khan hiếm khi các loại thức ăn cho hổ đã bị những tay thợ săn chuyên nghiệp vắt kiệt.

Còn bệnh tật khi thay đổi môi trường là điều đương nhiên, nếu không tạo lập được sự thích nghi từ nhỏ. Bệnh dễ thấy nhất là viêm ruột cấp do các tạp khuẩn đường tiêu hóa, bệnh lị, bệnh sán lá gan. Rồi sốt cao, thiếu máu, những bệnh khiến hổ có thể chết rất nhanh. Ai có thể vào các khu rừng để chữa bệnh cho chúng khi môi trường sống thay đổi như vậy?

- Vậy với tư cách một nhà khoa học, ông có ý kiến gì về vấn đề thu hổ nuôi để trả về rừng ở Việt Nam hiện nay?

- Tôi sẽ ủng hộ nếu như là hổ con được huấn luyện một cách khoa học từ nhỏ, được bảo vệ nghiêm ngặt khi trở lại rừng và đảm bảo sự phát triển của chúng. Còn nếu thả chỉ để làm trò mà không biết hết những nguy cơ thì một người làm công việc bình thường cũng không thể nào chấp nhận được chứ nói chi là một nhà khoa học.

- Xin cảm ơn ông!

Hoàng Nguyên Vũ
.
.
.