Một sáng ở làng Chuông

Thứ Năm, 01/03/2007, 16:06
Nón làng Chuông đã nổi tiếng từ vài thế kỉ trước, lá cọ ở Phú Thọ, các nguyên liệu như vòng, khung, sợi móc... làng tự tạo. Nón vừa chắc chắn, bền đẹp để các bà, các cô đội đi làm, đi chơi, vừa đẹp đẽ, vừa thanh lịch bên tà áo dài truyền thống.

Muốn ăn cơm trắng cá trê

Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông

Tôi về làng Chuông (huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây) vào một buổi sớm, trời âm u và có mưa phùn đúng tiết xuân. Mùng mười là phiên chợ chính của làng, chợ họp khá sớm, tầm sáu giờ rưỡi là đã đông vui tấp nập. Chợ đủ loại rau quả xanh tươi, đồ dùng gia đình, hàng quán ăn uống, nhưng về chợ làng Chuông vào những ngày phiên (mùng 4, mùng 10 hàng tháng), ai cũng biết mặt hàng chính ở đây là chiếc nón Chuông nổi tiếng.

Lần đầu tiên đến chợ, tôi bị thu hút bởi nét bình dị và mộc mạc của một chợ quê. Buổi phiên rộn ràng với người mua, kẻ bán, với những mặt hàng phong phú, đầy màu sắc. Mặt hàng chủ yếu là các nguyên liệu làm nón, lá nón, khung nón, vòng nón, sợi guột, cước và kim chỉ, quai nón.

Chợ quê có cái cuốn hút mà có lẽ không một tập đoàn Bourbon nào có thể sáng lập. Nét hồn hậu của những cụ già móm mém bán lá nón, giọng điệu mặc cả chân chất, thật thà của những người đi chợ phiên, nhanh gọn mà cũng thắm đượm là tình. Họ đâu chỉ xem hàng, ngã giá mà còn hỏi thăm nhau tình hình làm ăn, sức khoẻ, kể chuyện làng trên xóm dưới.

Quan sát chợ Chuông ngày phiên trên tầng cao của ngôi chùa, mới thấy tính cộng đồng hiện lên thật rõ, đông đúc, tấp nập nhưng chứa chan những mối thân tình. Chợt gặp cơn mưa xuân mùng mười nhưng nặng hạt, các bà, các cô bán hàng kéo vào những bóng cây, hiên chùa để bán hàng, thu vén hàng giúp nhau...

Nón làng Chuông đã nổi tiếng từ vài thế kỉ trước, lá cọ ở Phú Thọ, các nguyên liệu như vòng, khung, sợi móc... làng tự tạo, nhưng nón làng Chuông vượt trội về kĩ thuật và sự chau chuốt, tỉ mỉ. Nón vừa chắc chắn, bền đẹp để các bà, các cô đội đi làm, đi chơi, vừa đẹp đẽ, vừa thanh lịch bên tà áo dài truyền thống.

Làng nghề có ông Hai Cát, nổi tiếng là người đầu tiên mang kĩ nghệ làm nón về làng, với nguyên liệu cộng thêm sự học hỏi, sáng tạo, nón ông Hai Cát đã được đánh giá rất cao ở Hội chợ đấu xảo Hà Đông, quãng năm 1925. Để rồi từ chiếc nón thúng quai thao, chiếc nón làng Chuông đã có vị trí, cạnh tranh được với nón Huế để sóng đôi với chiếc áo dài tân thời ngày ấy.

Tôi bị cuốn hút vào những câu chuyện ngày xưa của người nghệ nhân 96 tuổi, cụ bảo "thấy cô nặng lòng với làng nghề thì tôi nói" phần vì sức khoẻ, phần vì không muốn bị ai quấy rầy. Chiếc nón lá trắng tinh đẹp thanh khiết là cả một quá trình nhiều công đoạn từ vò lá trong cát cho mỏng, phơi khô, là lá trên lưỡi cày cho phẳng, đến hun diêm sinh cho trắng; rồi làm khung, cầu kì với 16 vòng tròn đồng tâm. Công đoạn khâu thì quyết định cho một sản phẩm đẹp, mũi khâu đều tăm tắp từ bàn tay thiếu nữ miệt mài, theo ông Hai Cát "quan trọng nhất là tay trong phải khéo" (khâu nón phải để tay ở trong, tay ở ngoài và phối hợp nhịp nhàng) để mũi đều, lá không rách và mặt nón phẳng, tránh bị phồng...

Ngày còn trẻ, ông Hai Cát đi dạy nghề ở khắp nơi, từ Hà Nội, Hà Đông, đến Hải Dương, Hải Phòng... chia sẻ với dân làng những kĩ nghệ quí báu, đào tạo nhiều lớp nghệ nhân.

Hết một tuần trà, cụ bà mang những tấm ảnh của đoàn phóng viên, truyền hình đến làm phóng sự rồi thuyết minh, ôn lại những kỉ niệm với ánh mắt tự hào, đầy hoài niệm. Gần 80 năm gắn bó với nghề, chiếc nón ông Hai Cát đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng, được nhiều người nước ngoài biết tới và mua nhiều làm quà biếu vừa hữu dụng lại thật thanh lịch.

Gia đình ông Hai Cát đã thôi làm nón được hai năm nay, vì ông bà đã cao tuổi, con cháu không ai theo nghề, lại sinh sống ở miền Nam... tôi thấy mình thật may mắn rồi lại bồi hồi suy nghĩ liệu sau này, về làng có còn những "người muôn năm cũ" để kể những câu chuyện của quá khứ như thế không? Và ngày ngày hai cụ vui vầy với con cháu, giở những bức ảnh của ngày xưa để hồi tưởng, tự hào.

Nổi tiếng làm nón đẹp và khéo bây giờ trong làng có nhà anh Lê Văn Tuy, người làng gọi là ông, tôi ngỡ như phải cỡ năm, sáu chục tuổi, vậy mà "ông" lại rất trẻ, mới tròn 40. Nón anh Tuy nức tiếng gần xa vì chắc bền mà lại rất chú ý tính thẩm mỹ, gia đình anh làm nhiều nón theo đơn đặt hàng, nhiều sáng tạo và khác biệt nên rất uy tín.

Trò chuyện với vợ anh, tôi được biết anh có tới 30 năm tuổi nghề, luôn tỉ mỉ và cần mẫn bảo vệ thương hiệu đã gây dựng. Một ông bố có con gái cưới chồng, đặt một loạt nón thật đặc biệt để tặng hết hai họ, ông đã lặn lội từ Thái Bình về làng, nhưng thời tiết hanh xấu, nên anh chị không nhận lời vì sợ không đạt hiệu quả như ý.

Nhưng người khách vẫn khăng khăng, phút cuối thời tiết lại chiều lòng người, chỉ còn 2 ngày, người khách vẫn tin tưởng đặt hàng. Lúc đó anh chị vừa gấp rút sản xuất, vừa tự hào và cảm kích vì sự nhiệt thành, yêu mến sản phẩm nhà mình của người khách.

Chủ yếu từ những đơn đặt hàng, khách chỉ cần đưa kích thước, anh Tuy tự thiết kế và làm ra thành phẩm và được khách ưa chuộng. Anh chị luôn cầu tiến để làm ra những sản phẩm ngày càng tốt hơn, bền đẹp hơn.

Một sáng ở làng Chuông, cái không gian chân chất, đơn sơ mà hết sức thanh tịnh quyến luyến bước chân tôi. Sự hoài cổ về một làng nghề truyền thống, sự chăm chỉ, cần mẫn của từng nghệ nhân, nụ cười hồn hậu của bà cụ bán guột ngoài chợ, không khí hội đình với lễ thượng thọ các cụ đầu xuân, với bác Toàn người làng nhiệt tình dắt tôi đi đến từng địa chỉ. Có lẽ tôi chẳng thể quên. Và tôi sẽ trở về vào một ngày mùng 10 nữa, vào tháng Ba hội làng Chuông

Bảo Ngọc
.
.
.