Lãng phí lớn từ dự án cà phê chè tại 15 tỉnh miền núi phía Bắc
Dự án này liên quan tới hàng trăm nghìn người dân ở 15 tỉnh phía Bắc do quy mô triển khai hết sức "hoành tráng" của nó. Thế nhưng, khi mới triển khai được vài năm, hàng nghìn ha cà phê chè đã bị mất trắng khiến mồ hôi, nước mắt của người dân đổ xuống sông, xuống bể.
Chúng tôi đi thuyền trên hồ Thác Bà, Yên Bái tìm những đồi cà phê chè còn sót lại. Trong cái nắng tím tái của núi rừng, những triền đồi hoang vu nằm chơ vơ giữa mênh mông bể nước. Người dân ở đây đã chán cà phê chè khi hiệu quả của dự án không đem lại miếng cơm manh áo cho họ lúc bần hàn. Số diện tích do Công ty Cà phê Yên Bái quản lý còn chút màu mỡ, những diện tích do dân làm hầu hết đã trả lại cho... trời.
Đã như thế, hàng nghìn công lao động bỏ ra cùng với những khoản nợ vay mượn không nhỏ đầu tư vào cà phê chè nay đã mất trắng. Vậy là họ quay lại kiếp thuyền chài lang bạt trên sông hồ. Chủ yếu theo đuổi cây cà phê chè tại hồ Thác Bà là người dân tộc thiểu số. Họ đã nghèo nay lại thêm nghèo do cái nợ cà phê "trói vào".
Cuối cùng khổ nhất là... dân
Dự án này triển khai tại nhiều huyện miền núi của các tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Hoà Bình, Vĩnh Phú, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái cũ... với tổng vốn dự kiến là 791 tỷ 650 triệu đồng. Chỉ tính từ năm 1998 - 2004, tổng diện tích cà phê được trồng là 13.386,02 ha nhưng cũng bị "thui chột" dần. Đến nay, số diện tích cà phê chè mất trắng đã lên tới hơn 3.220 ha. Số còn lại cũng có 2.537,31 ha đang rơi vào tình trạng "thập tử nhất sinh".
Mỗi ha cà phê, người dân và các công ty đã phải đầu tư gần 20 triệu đồng. Như tại Thanh Hóa, nông dân ở các huyện phải thế chấp sổ đỏ để vay vốn đầu tư. Hơn nữa, đây là giống cây "quý tộc" nên công chăm bón không biết bao nhiêu mà kể. Cây cà phê chè trồng trên các triền đồi cao, hệ thống thuỷ lợi lại không được bố trí phục vụ rốt ráo nên cây "khô như ngói" rồi dần dần chết.
Để cứu cây, vào mùa khô hạn, nhiều người dân phải gánh từng thùng nước lên đồi tưới cà phê nhưng công sức ấy cũng rơi vào tình trạng vô vọng. Vậy nên người dân ở đây chán nản, kiệt quệ, để mặc cà phê với... trời. Không những thế, vào thời điểm cà phê rớt giá thảm hại, người dân lập tức chặt bỏ cà phê chè rồi trồng sắn, trồng mía để cứu nghèo.
Đến nay đã có 10/15 tỉnh bỏ cuộc maratông cà phê đau khổ này. Chỉ còn lại các tỉnh như Sơn La, Nghệ An và một số đơn vị của Tổng Công ty Cà phê Việt
Theo nhận định của các chuyên gia, số 2.537 ha cà phê xấu nêu trên, nếu không khẩn cấp chăm bón sẽ lại mất trắng. Như thế, hàng chục tỷ đồng nữa lại ném xuống khe, xuống suối.
Thất bát là tại... ông trời?
Với 3.220 ha cà phê chè mất trắng và 2.537 ha đang "chờ chết' đủ để đẩy hàng nghìn người dân vào cảnh nợ nần túng bấn. Tại Thanh Hoá, đến năm 2001 đã trồng trên 4.000ha gồm 6.300 hộ nông dân (chủ yếu là đồng bào dân tộc Mường) tham gia với tổng vốn vay 97 tỷ đồng. Trong đó riêng nguồn vốn AFD đã lên tới con số 42,8 tỷ. Còn lại, các hộ dân huy động từ các nguồn như ngân hàng, quỹ hỗ trợ phát triển...
Đến nay, trong hơn 4.000ha cà phê chè trên chỉ còn có 70 ha còn tốt. Hơn 3.000 ha đã mất trắng hoặc đang "kề miệng lỗ". Vậy là nhiều người dân ở đây nhao nhác, mất ăn, mất ngủ. Sổ đỏ nay đã thế chấp cho ngân hàng, cà phê thì chết, họ không biết trông vào đâu nên đành phải lần hồi kiếm sống bằng cách trồng khoai, trồng sắn. Hơn nữa, thời gian ban đầu thực hiện dự án thì giá cà phê trên thế giới xuống rất thấp. Vì vậy, người dân càng chán. Đến khi cà phê tăng cao tới 3.000 - 4.000 USD/tấn thì họ lại trở tay không kịp. Cây cà phê lúc đó đã "tàn phế".
Mức đầu tư từ nguồn vốn vay của AFD quá thấp và chỉ cho vay 3 năm đầu. Khi mới thực hiện dự án, vốn đầu tư là 6,6 triệu/ha, sau đó mới điều chỉnh lên 10 triệu/ha. Đến năm 2002 mới nâng lên 15 triệu/ha. Trong khi đó, đầu tư một ha cà phê chè trung bình phải hết tới 30 triệu đồng. Như vậy hết ba năm không được vay vốn nữa, người dân lại phải tự lo. Những người dân này còn đói nghèo, bần hàn thì tiền đâu để tiếp tục đầu tư cho cà phê. Vậy nên, trong 3 năm đầu cà phê phát triển tốt nhưng sau khi hết vốn, vườn cây của các nông dân nghèo này lại rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Không phải không thể thực hiện dự án cà phê chè này một cách có hiệu quả nhưng do cách quản lý cũng như sự phối hợp đầu tư còn nhiều bất cập nên tiền của bị lãng phí thảm hại. Các tỉnh Sơn La, Nghệ An và nhiều đơn vị khác có những diện tích cà phê rất tốt và có năng suất cao. Tuy nhiên, các tỉnh còn lại hầu hết đều bi đát vì cà phê chè. Đây là một bài học lớn rút ra từ việc đầu tư ồ ạt, dàn trải, thiếu đầu tư, không khảo sát thực tế. Hậu quả là hàng nghìn người dân phải gánh chịu nợ nần
