Gieo chữ ở Mèo Vạc
Cái chữ nơi non cao
Tôi có một người bạn tình nguyện dạy học ở vùng sâu Phong Thổ (Lai Châu). Anh nói: "Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai". Cái tâm huyết ấy làm tôi cảm động. Sau này, đi nhiều vùng sâu xa khác, không hiếm những người tình nguyện đem cái tâm huyết truyền gieo cho trẻ em cái chữ, cái tri thức để rồi nhận về những thiệt thòi cho mình, nhất là những giáo viên nữ trẻ.
Những chuyến về vùng cực Bắc Hà Giang cũng để lại ấn tượng. Nhất là mảnh đất Tà Lủng, huyện Mèo Vạc. (Xin đừng nhầm với xã Tà Lủng ở huyện Đồng Văn). Nơi đây cách thị xã Hà Giang 160km. Đường núi khó đi vô cùng. Những chiếc xe ôtô rù rì như những con rùa men theo những đường vòng men sườn núi, một bên là vách, bên kia là thung lũng. Sẵn sàng nuốt chửng những chiếc xe của tài xế nào kém may mắn.
Trước khi đi Mèo Vạc, chúng tôi đã được cán bộ Sở Văn hóa và Sở Giáo dục "nạp pin": "Tìm hiểu về giáo viên vùng cao ở Hà Giang có nhiều điều thú vị lắm. Anh em mang những bài viết đó về xuôi thành đặc sản. Nhớ đừng kéo cô giáo nào của chúng tôi về. Kéo một cô là chúng tôi mất một cô giáo tốt. Có tình nguyện ở ngoài thì được. Ông Lương Đức Soòng - Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Giang thêm: "Các anh ấy ở dưới xuôi, mọi thứ tốt hơn, đời nào chịu ở lại đây".
Thường, nếu muốn đi nhanh ở đường núi Mèo Vạc phải dùng xe Uoát. Nhưng thi thoảng vẫn có những đoàn sinh viên dưới xuôi lên du lịch, tìm hiểu, đi bằng xe khách to tướng, thật vất vả. Ngồi trên xe, nhìn ra ngoài chỉ thấy chập chùng đá và sương nắng. Thi thoảng có những người dân đi làm, nhỏ xíu như một nốt ruồi trên khuôn mặt.
Do điều kiện kinh tế, điều kiện thời tiết nên tình trạng học sinh bỏ học ở Mèo Vạc rất cao. Điều này thật khó đối với những người thầy, người cô. Vì vậy lượng giáo viên tụ tập về đây cũng nhiều, là do chính sách của Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Giang muốn khôi phục lại môi trường học tập, tình hình học tập hiện tại của học sinh. Nhưng dường như mọi cố gắng đều khó có kết quả tốt.
Có một điều, giáo viên Mèo Vạc nói riêng và vùng cao nói chung đều phải chấp nhận một logíc khắc nghiệt của nghề nghiệp: Muốn có lương thì phải có lớp. Mà muốn có lớp thì giáo viên phải xuống tận bản để vận động. Vận động được rồi, giáo viên lại phải tự chọn lấy một bản ở trung tâm để cùng với dân mở lớp, dạy cho tiện. Sau đó mỗi tháng trở về trung tâm xã lĩnh lương một đôi lần bằng việc đi bộ cả buổi, sau lại bám núi mà về phòng.
Ông Soòng cảm động nói: "Cái chữ ở vùng cao khó học hơn cái chữ ở vùng xuôi thì phải. Giáo viên chật vật hơn mà học trò vẫn khó tiếp thu hơn. Bản chất là những giáo viên vùng cao rất hiếu khách. Vì chẳng mấy khi họ có khách. Cuộc sống rất buồn tẻ. Vì thế mà về mặt tình cảm, họ dễ bị chinh phục".
Nỗi niềm cắm bản
Chúng tôi được dẫn vào xã Tà Lủng. Nơi đây chỉ có duy nhất một trường cấp một gồm hai lớp một và một lớp hai. Người đảm đương việc dạy dỗ cho ba lớp học sinh người Mông duy nhất có một cô giáo tên Mai Chi người ở huyện Vị Xuyên (Hà Giang) lên.
Phòng cô Mai Chi được ghép với đầu lớp học, vách được thưng bằng những cây bương núi. Cả phòng cô và trò đều tuềnh toàng, đơn giản. Nhìn quanh phòng cô không có gì đáng giá ngoài mấy quyển sách và chồng giáo án, mấy tập báo cũ. Gặp chúng tôi, Mai Chi vui lắm. Những ngày thường ở đây, ngoài giờ dạy học, cô thường bỏ những lá thư cũ ra đọc đi đọc lại, rồi nghe đài, soạn giáo án cho qua ngày. Ngoài ra cô đi xem học trò cần giúp gì thì làm cho đỡ buồn. Người nữ giáo viên ở bản gắn với bao nhiêu nỗi niềm.
Tuổi 20 đến và đi. Mai Chi phải đối diện với học trò, đá núi, sương phủ và nỗi buồn. Mọi điều kiện tối thiểu cho cho nhu cầu tinh thần ở đây đều thấp kém. Thỉnh thoảng xuống trường chính lĩnh lương thì mới có báo mang về đọc. Rồi hoặc ố, hoặc nát do chuyền tay nhau đọc. Nghe đài cũng khó vì sóng kém. Ngoài ra, những sinh hoạt về ăn uống cũng khó khăn. Đường thì xa, mà không phải cứ muốn đi là đi được vì phải xuống chợ trung tâm, chợ họp có ngày chứ không phải ngày nào cũng họp.
Còn khó khăn về khí hậu nữa. Mùa khô ở đây kéo dài. Cái gió đông ràn rạt cao nguyên đá, làm nứt nẻ cả tay chân. Rồi mùa khô hiếm nước, cái lạnh vẫn như mũi dao chích vào da thịt, nhức buốt. Mùa khô hạn thường bắt đầu từ tháng tư đến tháng chín âm lịch.
Trời không mưa, tất cả các nguồn sinh thủy đều cạn kiệt. Có nơi muốn lấy được nước, giáo viên phải đi cách trường khoảng chục cây số. Vì hiếm nên một chậu nước ở đây thường được sử dụng đến 5 lần. Lần đầu tiên là rửa mặt, đánh răng. Tiếp đó là vo gạo, rửa chân tay và cuối cùng là tưới cho cây trồng. Vào ngày nghỉ mỗi tuần, Mai Chi lại phải sắp sửa quần áo tìm đến nơi có nước, giặt giũ, rồi gánh nước về.
Nối niềm giáo viên vùng cao, có lẽ chuyện tế nhị và cũng thiết thực nhất là chuyện chồng con. Ở Mèo Vạc hiện nay giáo viên nữ có tuổi đời còn rất trẻ. Một giáo viên ở Lũng Pù cho biết: "Điều này là nỗi niềm không chỉ của cá nhân em, của chị Mai Chi mà còn là của rất nhiều người khác nữa. Chúng em chẳng giao lưu được với ai. Không được tiếp xúc với bạn trai thì làm sao kiếm được chồng. Chúng em về đây dạy học, trước hết là để có lương sinh sống, nhưng cũng là nhiệt huyết, chọn cái nghề này. Ngày trước bố mẹ cho đi học, hứa sẽ đem cái chữ cho dân bản, quên làm sao được. Nhưng mà khó khăn...".
Có lẽ, sẽ là may mắn cho những giáo viên nào được dạy học ở gần Đồn Biên phòng, sẽ có dịp được giao lưu, tiếp xúc, và "cơ hội" có chồng sẽ lớn lao hơn. Trẻ em vùng cao khao khát cái chữ. Nhiều gia đình và học sinh biết được điều đó, nhưng nhiều em chẳng biết được mình có khát chữ, có cần chữ hay không. Chính nhiệt huyết và công việc thầm lặng của những cô giáo gieo chữ vùng cao sẽ cho học sinh biết thế nào là cái chữ, là cái tri thức và con người cần nó đến thế nào.
Chia tay Mai Chi, chia tay những cô gái trẻ đầy nỗi niềm và tâm huyết nơi cao nguyên, tôi nhận ra mình cũng cần phải làm điều gì đó có ý nghĩa thiết thực hơn, cho con người, cho chính xã hội mình. Và đường chúng tôi xuôi lại có đá, gió và sương giăng mắc trập trùng
