"Gã giang hồ" mê tiền Việt cổ

Chủ Nhật, 05/03/2006, 08:28

Từng là một đứa trẻ bụi đời làm đủ thứ nghề để kiếm sống nhưng "nghiện nặng" tiền cổ đến mức lập dị, anh là người được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chọn để giới thiệu bộ sưu tập tiền cổ Việt Nam (gồm cả tiền xu lẫn tiền giấy) khá công phu trong Triển lãm kỷ niệm 55 năm ngày thành lập ngân hàng (6/5/1951-6/5/2006) sắp tới.

Nói về cuộc đời của mình, Đặng Đức Dũng - chuyên viên văn hóa xã hội thuộc Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc TP HCM - tâm sự: “Nhiều lúc tôi cứ tưởng một đứa trẻ bụi đời như mình đã trở thành tay giang hồ từ lâu rồi. Chính sự khát học đến mức bị ám ảnh bởi từng con chữ đã đưa đời tôi rẽ sang một hướng khác!”. Khi đến tuổi biết nhận thức được mọi việc thì anh đã là một đứa trẻ trong viện mồ côi, không có một chút ký ức gì về quê quán, về gia đình và những người thân.

Đứa trẻ bụi đời trở thành cử nhân

Theo lời của một người quen kể lại thì quê anh ở Phú Yên. Năm anh lên 4 tuổi, trong một tai nạn lật xe ở đèo An Khê, anh bị thất lạc hết người thân, sau đó may mắn được một người lính Mỹ đem về nuôi dưỡng trong một ngôi làng nhỏ ở Pleiku. Khi người lính ấy về nước thì anh được đưa vào trại trẻ mồ côi. Sau đó, được một gia đình tốt bụng ở Phú Yên đem về nuôi dưỡng. Nhưng cha mẹ nuôi quá nghèo, 12 tuổi anh bỏ nhà đi bụi, lang thang khắp nơi từ Pleiku đến Nha Trang làm đủ mọi nghề của dân bụi đời chỉ để kiếm miếng ăn.

Sau đó, anh vừa chân ướt chân ráo vào Sài Gòn kiếm sống thì bị thu gom vào Trường Thiếu niên 3 (nơi cải tạo thanh thiếu niên hư). Trốn thoát ra ngoài, lưu lạc qua nhiều nơi, anh lại xin vào làng cô nhi ở Long Thành (Đồng Nai). Được một thời gian, anh lại tiếp tục sống bụi đời có lúc được suy tôn là một đàn anh trong giới giang hồ. Bạn bè anh có người từng là dân giang hồ có tiếng lừng lẫy một thời. Nhưng sự khát chữ và nỗi mặc cảm của một đứa trẻ bụi đời bị người khác coi thường luôn ám ảnh anh. Vì thế anh tranh thủ học mọi lúc mọi nơi khi có thể.

Không có giấy khai sinh, không giấy tờ tùy thân nên ngày sinh trên giấy CMND chính là ngày đầu tiên mà anh đi học ở Trường Chu Văn An (Hưng Đạo). Mượn được một chiếc máy ảnh cũ kỹ, ban đêm anh hành nghề chụp ảnh, sau đó lại chuyển sang đạp xích lô, rồi làm phụ hồ trong những ngày nghỉ để kiếm tiền trang trải việc học. Khi tốt nghiệp cử nhân Đại học Mở bán công TP HCM, cũng là lúc anh giã từ cuộc sống của giới giang hồ để trở thành một cán bộ hoạt động xã hội, người chuyên phát động những chương trình từ thiện và tình nguyện giúp đỡ cho những đứa trẻ mồ côi, khuyết tật có hoàn cảnh bất hạnh như anh.

Nặng lòng với lịch sử tiền cổ Việt Nam

Anh đến với thú sưu tập tiền cổ bắt đầu từ một cơ duyên. Năm 1989, anh làm trực phòng ở khách sạn Đệ Nhất. Tình cờ có một người Mỹ vốn là nhà sưu tầm tiền cổ nhờ anh tìm giúp một số đồng tiền cổ Việt Nam. Để trả công, ông ta cho anh một vài đồng ngoại tệ. Chính những họa tiết và hoa văn lạ trên những đồng tiền cổ đó đã làm anh thích thú và bắt đầu thú vui sưu tầm tiền cổ. Bây giờ, trong bộ sưu tập của anh đã có hơn 80% những đồng tiền xu đến tiền giấy của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Anh cũng là một trong số ít người trong giới sưu tập tiền cổ có bộ sưu tập khá công phu và đầy đủ cả hai loại tiền xu lẫn tiền giấy. Chỉ riêng tiền xu anh đã có gần 30 cuốn album với những đồng tiền thuở sơ khai như: Thái Bình Hưng Bảo (Đinh Tiên Hoàng), Thiên Phúc Trấn Bảo (Lê Đại Hành), Thuận Thiên Đại Bảo (Lý Thái Tổ), Nguyên Phong Thông Bảo (Trần Thái Tôn)... cho đến các đồng tiền xu cuối cùng Bảo Đại Thông Bảo của thời Bảo Đại.

Trong bộ sưu tập tiền xu cổ của mình, anh có khá đầy đủ những đồng tiền của các vị vua đầu triều xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Độc đáo nhất trong bộ sưu tập tiền xu cổ của anh là những đồng tiền của các chúa Nguyễn đúc ở Đàng Trong vào thế kỷ XVI, và bộ tiền do Mạc Thiên Tứ đúc tại Hà Tiên năm 1736. Anh cũng là một trong số ít những người có đầy đủ bộ tiền giấy xuất hiện đầu tiên ở nước ta vào năm 1876, bộ tiền đầu tiên của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam do Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phát hành năm 1951, bộ tiền của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phát hành năm 1963 gồm 8 tờ giấy bạc với các mệnh giá 50 xu, 20 xu, 10 xu, 50 đồng, 10 đồng, 5 đồng, 2 đồng và 1 đồng lưu hành trong vùng giải phóng.

Mê tiền đến mức, anh có hẳn một cuốn album sưu tầm những bài báo tư liệu viết về tiền cổ, nghe ai nhắc ở đâu có tiền cổ là anh lại lặn lội đến tận nơi để tìm mua cho bằng được. Đọc báo thấy ở Quảng Trị vừa khai quật được tiền cổ, anh liền xin nghỉ phép ở cơ quan, vác balô ra tận nơi để xem thử. Nghe một người bạn mách có một đồng bạc quý hiếm ở Đắk Lắk, một mình anh tìm vào tận bản làng của người dân tộc để xin đổi bằng được đồng bạc đó. Để đáp ứng cho sở thích sưu tập tiền cổ, anh còn viết sách nghiên cứu đồng tiền Việt Nam qua các thời đại lịch sử với đầy đủ niên hiệu và liệt kê những đồng tiền cổ Việt Nam. Mong muốn cho nhiều người biết đến những đồng tiền cổ Việt Nam hơn vì theo anh: “Lịch sử Việt Nam hiện lên rất rõ trên những đồng tiền cổ, tìm hiểu về tiền cổ chính là tìm hiểu về lịch sử của Việt Nam”. Cho nên, anh đang lập ra dự án và ôm ấp ý tưởng sẽ thành lập một bảo tàng về tiền cổ Việt Nam, ở đó những đồng tiền cổ Việt Nam sẽ được xếp một vị trí trang trọng. Đồng thời anh cũng đang vận động để thành lập Hội những người nghiên cứu và sưu tập tiền cổ Việt Nam.

Tự nhận mình là một kẻ “nghiện ngập” tiền cổ hạng nặng, còn bạn bè thì gọi đùa anh là “tỉ phú tiền cổ”. "Gã" tỉ phú này hàng ngày vẫn ở nhờ nhà một người quen, vẫn ăn cơm bụi và mải mê với công việc sưu tầm tiền cổ

Bích Phượng
.
.
.