Chuyện về người tù binh tuổi 15
Chiến tích oai hùng thời đánh Mỹ anh đã từng, công tác quản lý giáo dục phạm nhân hôm nay anh đầy tâm huyết. Năm 2001 anh được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất. Năm 2003 anh được tặng thưởng Huy chương Vì an ninh Tổ quốc và Kỷ niệm chương về những chiến sĩ bị tù đày.
Cậu bé làm kim trong nhà lao
Sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng ở xã Điện Hòa, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, 12 tuổi Trần Hoàng Quang đã làm liên lạc và vào du kích ở tuổi 14. Nhanh như sóc, gan dạ, khôn ngoan trong những chuyến công tác cùng đồng đội, Trần Hoàng Quang luôn được các chú các anh chỉ huy tin tưởng.
Tháng 7/1972, trong một trận chống càn, tổ công tác của anh kẹt dưới hầm bí mật bị địch phát hiện gọi hàng, anh cùng đồng đội đang bàn phương án mở đường máu thì bọn địch ném mìn la mo xuống, hai đồng đội hy sinh, trong đó có cha của anh, là Bí thư chi bộ. Anh bị thương nặng, bị cháy toàn thân và nhiều mảnh đạn vào người. Địch bắt anh đưa về Khu An ninh Quân đội ở Non Nước. Bị tra tấn rất dã man nhưng anh quyết không khai báo điều gì. Hai tháng sau, trên chuyến máy bay chở khoảng 30 chiến sĩ bị chúng đưa ra đảo Phú Quốc có người chiến sĩ nhỏ tuổi Trần Hoàng Quang.
Thấy Trần Hoàng Quang tuổi nhỏ mà đã tham gia đánh địch, các chú trong nhà lao rất nể phục và thử thách lòng kiên trì của anh bằng cách đưa 1/7 lưỡi dao lam, 1 thanh Inox mỏng bảo làm cây kim vá đồ. Chiến sĩ Quang cột lưỡi dao lam vào chiếc đũa và bắt đầu công việc tưởng như đơn giản nhưng cực kỳ khó khăn. Lưỡi dao lam cứ gãy dần làm anh lo lắng. "Vấn đề không phải thiếu kim mà là tập cho con tính kiên nhẫn và khéo léo. Nếu làm được con sẽ là người chiến sĩ cách mạng kiên cường sau này", vị "thủ lĩnh" nhỏ nhẹ động viên. Người chiến sĩ nhỏ kiên trì khắc nhẹ từng tí vào thanh Inox. Và sau 20 ngày, với sự tỉ mỉ và cẩn trọng, anh đã biến thanh Inox thành cây kim hoàn chỉnh.
Khi anh làm được 2 cây kim thì vị "thủ lĩnh" ôm Quang vào lòng nựng nịu như đứa con yêu của mình: "Con giỏi lắm, mai này dù có đi đâu về đâu, ở đơn vị nào cũng phải làm việc bằng lòng kiên trì, chiến đấu bằng tinh thần dũng cảm, thông minh và khôn khéo". Lời chỉ dạy của vị "thủ lĩnh", Trần Hoàng Quang cảm thấy ấm lòng và tăng thêm nhiều dũng khí.
Cuối năm 1972, Trần Hoàng Quang được đưa về trại tù binh Hố Nai, Biên Hòa. Ngày 14/3/1973, trong đợt trao trả tù binh tại huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, Trần Hoàng Quang được biên chế vào Trung đoàn 71 quân giải phóng miền Nam. Đầu năm 1974, chiến sĩ Quang được chuyển ra Bắc an dưỡng tại Sầm Sơn - Thanh Hóa. Cuối năm 1974, anh được cử đi học tại Trường An ninh nhân dân E271 tại Tam Dương - Vĩnh Phú. Năm 1975, Trần Hoàng Quang về công tác tại Trại giam T15 Công an tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Rồi giữ chức Giám thị Trại giam Gia Trung vào năm 2000.
![]() |
|
Đồng chí Trần Hoàng Quang |
Dùng tình người để cảm hóa phạm nhân
Trại giam Gia Trung được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 1985. Trại có hơn 2.500 phạm nhân, trong đó đa phần phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tiền án, tiền sự có mức án cao nên việc quản lý, giáo dục rất khó khăn.
Để làm tốt công tác này, Giám thị Quang cùng tập thể lãnh đạo trại thường xuyên chỉ đạo trinh sát và quản giáo nắm tình hình phạm nhân, kịp thời ngăn chặn nhiều vụ âm mưu trốn trại. Tuy nhiên cũng có nhiều phạm nhân lợi dụng sơ hở trốn trại, cán bộ chiến sĩ kịp thời truy bắt, đồng thời viết thư kêu gọi đầu thú. Nhận được thư của Giám thị Quang, các phạm nhân đã điện thoại xin được đầu thú. 16 đối tượng trốn trại các năm 90 trở về trước đã được truy bắt và thanh loại. Đặc biệt gần 10 năm qua, trại đã không để tồn tại một phạm nhân trốn trại nào ngoài vòng pháp luật.
“Giáo dục phạm nhân phải bằng cái tâm, tình người anh ạ”, Giám thị Quang nói với tôi. Anh kể trường hợp mà các quản giáo và Phó Giám thị báo "đã hết thuốc chữa", đó là phạm nhân Trần Thanh D., anh hỏi qua rồi lên phương án giải quyết. Phương án của anh rất đơn giản mà hiệu quả. Trần Thanh D., 53 tuổi, có mức án chung thân nên không chịu cải tạo mà thường có biểu hiện chống đối. Anh trực tiếp gặp tìm hiểu tâm tư nguyện vọng. Trần Thanh D. bảo: "Những người tuổi như tôi sống trong điều kiện sung sướng đầy đủ vật chất, được chăm sóc sức khỏe tốt liệu có sống đến tuổi 80 không, trong khi tôi tuổi đã cao, án chung thân, sống trong "điều kiện tù" làm sao sống được đến ngày về mà cải tạo…". “Tôi hỏi anh - Giám thị Quang nói - Người giàu có khi chết, gia đình thuê người khóc than là ý nghĩa gì? Phải chăng tiếng khóc vô cùng thiêng liêng với người chết lẫn người sống. Người chết rất cần tiếng khóc để thấy rằng họ còn có người thương tiếc, đó là hạnh phúc. Vậy anh chết trong tù ai khóc cho anh? Dù ngày về còn xa nhưng nếu anh cải tạo tốt thì vẫn có hy vọng”. Trần Thanh D. cúi đầu im lặng. Từ đó anh ta không còn chống đối nữa mà cải tạo rất tốt. Đầu xuân năm 2005, Trần Thanh D. cầm giấy ra trại, anh ta đã khóc hết nước mắt và cảm ơn Giám thị Quang đã cho anh ta bài học làm người.
Cách quản lý giáo dục có hiệu quả của Giám thị Quang và các cộng sự đã giúp cho gần 3.000 lượt phạm nhân được giảm án và đặc xá, tha tù trước thời hạn từ năm 2001 đến nay. “Đó là niềm hạnh phúc của chúng tôi” - Giám thị Quang vui vẻ nói.
Người "kỹ sư" của mọi công trình
Để thúc đẩy lao động, dạy nghề phát triển và bảo vệ trại an toàn phải có điện thắp sáng, trong khi tại địa bàn trại đóng quân chưa có đường điện cao thế, Giám thị Quang cùng cán bộ, chiến sĩ nghiên cứu, lợi dụng dòng nước chảy của con suối Ayun đắp đập ngăn nước, lấy nước làm thủy điện nhỏ tưới cho 200ha cây màu của trại và hàng trăm hécta lúa nước của nhân dân địa phương xã Ayun, tiết kiệm cho Nhà nước và nhân dân hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Đặc biệt vùng đất đơn vị đóng quân có nhiều loại đất cao lanh có thể làm đồ sứ, Giám thị Quang quyết định tổ chức sản xuất chén hứng mủ cao su nhưng thuê kỹ thuật xây lò, tạo hình, tráng men, đốt lò từ Bình Dương ra làm một thời gian thấy tốn kém quá nên anh quyết tự làm. Anh vào Bình Dương tìm hiểu kỹ thuật rồi về tổ chức xây lò thử nghiệm nhưng hiệu quả đem lại vẫn chưa hài lòng, anh lại thân chinh vào Bình Dương một chuyến nữa. Kiên trì rúc từng lò gốm sứ, "moi" tỉ mỉ quy trình kỹ thuật, cuối cùng Giám thị Quang đã thành công. Anh tiếp tục chỉ đạo xây thêm 3 lò thử nghiệm nữa với công suất mỗi lò 65.000 sản phẩm/lượt, nâng tổng sản phẩm trong một tháng lên 1.820.000 sản phẩm.
Sản phẩm chén hứng mủ cao su làm ra chất lượng không thua kém chén của Bình Dương và Quảng Bình, giá thành hạ hơn nên được các công ty cao su trên địa bàn Tây Nguyên và nhiều nơi khác ký hợp đồng bao tiêu hết. Những sáng kiến cải tiến kỹ thuật khá mạo hiểm của Giám thị Quang đã đem lại kết quả ngoài mong đợi: tăng 16% lãi ròng so với hình thức sản xuất cũ, tiết kiệm hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
“Chí kiên nhẫn, lòng kiên trì đúng lời dạy của vị "thủ lĩnh" ở nhà lao Phú Quốc ngày nào đã giúp tôi thành công” - Giám thị Quang nói về bài học kinh nghiệm của mình.
Sau khi kết thúc câu chuyện, Đại tá Trần Hoàng Quang cho biết, anh vừa được Bộ điều về làm Phó Cục trưởng Cục Theo dõi tạm giam tạm giữ thuộc Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp. Tôi tin ở vị trí công tác mới này, người chiến sĩ trẻ gan dạ năm xưa sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình

