Chuyện về người Áo được phong hàm Đại tá quân đội VN

Chủ Nhật, 19/12/2004, 07:46
Sang Việt Nam trong đội quân lê dương Pháp, Ernst Frey lại trở thành một đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 31 tuổi ông Nguyễn Dân (tên Việt Nam của Frey đặt theo gợi ý của tướng Võ Nguyên Giáp) đã trở thành Đại tá quân đội nhân dân Việt Nam.

Frey sinh năm 1915 tại thành Vienna, thủ đô nước Áo, trong một gia đình gốc Do Thái. 19 tuổi, anh gia nhập tổ chức Thanh niên Cộng sản Áo, đã nhiều lần bị bắt giam. Năm 1938, nước Áo sáp nhập vào Đế chế thứ ba của bọn Quốc xã; quân Đức ào ạt tiến vào nước Áo.

Vì thế, Frey phải trốn sang Thụy Sĩ, nhưng tại đây anh cũng bị bắt giam nhiều tháng. Khi được thả, anh trốn sang Pháp với ý định gia nhập Binh đoàn tình nguyện quốc tế sang chiến đấu tại Tây Ban Nha. Tình thế đã đẩy anh vào đội quân lê dương và cùng với đội quân này sang Algeria, rồi từ đây - trên bến cảng Casablanca, đơn vị anh được điều sang chiến trường Đông Dương.

Sau 106 ngày đêm lênh đênh trên biển cả, ngày 1/7/1941, Frey và đồng đội đã tới Sài Gòn. Buổi chiều ấy vô cùng nóng nực. Vào doanh trại, Frey đánh trần, nằm bất động trên chiếc giường gỗ. Mồ hôi tiếp tục túa ra khắp người. Anh ao ước được tắm. Nhưng tắm xong người dịu đi một chút rồi lại nóng ran như cũ.

Năm 1944, ở tuổi 29, Frey trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và sau đó, trở thành một Đại tá thuộc lớp đầu tiên của quân đội ta. Ông từng giữ những chức vụ quan trọng như: Phó Tư lệnh quân khu 4, chỉ huy trưởng các đơn vị bảo vệ khu căn cứ Trung ương...

Ít ngày sau, Frey lên tàu ra Hải Phòng, rồi từ đó đi tàu hoả lên Hà Nội, tiếp đó về một vùng quê với phong cảnh thật là mới lạ: Những rừng cọ, mái tranh, đồng lúa, con đê và những đàn bò. Đó là Việt Trì - nơi đóng quân của Trung đoàn số 5. Tại đây, Frey gặp nhiều lính lê dương bị bệnh vàng da trên mặt, hậu quả của các bệnh về gan, mật, dạ dày hoặc đường ruột - do sốt rét, kiết lị và nghiện rượu.

Cũng trong trại lính, Frey làm quen được với những người cùng chí hướng, như : Schroeder, chàng trai người Đức đến từ thành phố Côlônhơ (Koeln), đảng viên Đảng Cộng sản Đức từ khi còn là sinh viên đại học; Zerna, một thanh niên Berlin, tính tình cởi mở, Silva, người xứ Phoanbec, đảng viên Cộng sản, từng chiến đấu trong Binh đoàn quốc tế ở Tây Ban Nha và Borchers, từng nhiều năm gắn bó với phong trào Cộng sản trên quê hương anh.

Frey vinh dự cùng Bác Hồ và Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp tiếp phái đoàn Nam Bộ ra thăm chiến khu Việt Bắc (1948).

Những thanh niên có chung một chí hướng ấy đã thuê một ngôi nhà để khi cần thiết có thể tĩnh dưỡng, tránh sự ồn ào. Ngôi nhà trở thành nơi gặp gỡ, hội họp của những người Cộng sản trong đội quân lê dương đóng ở Việt Trì. Và chính đó là nơi ra đời chi bộ Đảng Cộng sản của họ - một tổ chức do Frey sáng lập và "phụ trách chính trị".

Đối với Frey, việc quan trọng hàng đầu là bắt liên lạc với Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong cuộc tìm kiếm ấy, Frey may mắn được tiếp xúc với đồng chí Phong, mà sau Cách mạng tháng Tám  1945, ông vô cùng ngạc nhiên và sung sướng khi biết rằng đó là Tổng Bí thư Trường Chinh.

Chính Tổng Bí thư Trường Chinh đã vạch kế hoạch nhằm "giải thoát" Frey và các bạn chiến đấu của ông ra khỏi quân đội Pháp và chuyển sang hoạt động cho cách mạng Việt Nam.

Thoạt đầu, cả Frey và Schroeder, Borchers cùng công tác trong các cơ quan báo chí của Đảng, nhưng khi biết năng lực cụ thể và nguyện vọng của từng người, Đảng đã bố trí Borchers và Schroeder tiếp tục làm báo tại Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, rồi công tác địch vận.

Còn Frey, một người đã từng được đào tạo về quân sự ở Áo, đã được Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cùng với Tướng Vương Thừa Vũ làm công tác huấn luyện quân đội ta tại một địa điểm ở Phú Lương. Khó khăn, thiếu thốn nhiều, nhưng khoá huấn luyện đã trang bị những kiến thức cơ bản về quân sự cho một số chiến sĩ ưu tú đầu tiên của quân đội.--PageBreak--

Nhờ những đóng góp thiết thực, Frey đã trở thành Đại tá của Quân đội Cách mạng Việt Nam kèm theo lời khen ngợi và cảm ơn của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp khi ông mới ở tuổi 31.

Những kỷ vật quý hiếm

Sau những ngày tháng cùng Tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy pháo binh Việt Nam và xây dựng An toàn khu với trọng trách chỉ huy trưởng các đơn vị bảo vệ khu căn cứ đặc biệt quan trọng này, ông vinh dự được Bác Hồ cử làm một trong các đại diện tiếp đoàn đại biểu Nam Bộ ra Việt Bắc năm 1948 (do ông Trần Văn Trà, Trần Bửu Kiếm dẫn đầu). Trong một cuộc tiếp chuyện riêng, Bác Hồ ân cần thăm hỏi sức khoẻ, gia đình, công tác của ông và Người cho ông biết Người đã từng qua Áo trong thời kỳ hoạt động bí mật.

Ngày kết thúc nhiệm vụ và trở về Áo, ông vui mừng nhận được thư của Bác, nguyên văn bằng tiếng Pháp, và ông đã giữ bên mình như một kỷ vật quý hiếm của đời ông. Trong bức thư này, Bác Hồ viết: "Đồng chí Nguyễn Dân thân mến, tôi rất tiếc là không  thể đến bắt tay đồng chí trước khi đồng chí ra đi. Dù ở đây hay ở nơi nào khác, tôi chắc rằng đồng chí sẽ đem hết khả năng của mình phục vụ cho sự nghiệp của chúng ta".

Trong những kỷ vật quí hiếm khác, ông còn giữ cẩn thận nhiều tấm ảnh ông chụp ở Việt Bắc, như ảnh dự Đại hội Đảng lần thứ 2, được ngồi cạnh các đồng chí lãnh đạo như đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt... Một vinh dự nữa là ông được chụp ảnh kỷ niệm với Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Hoàng Quốc Việt...

Frey có tấm chứng minh thư đặc biệt mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu hồi đó đã ký, mang số 74QP của Bộ, tấm thẻ ghi rõ: "Yêu cầu các cơ quan kháng chiến, quân sự đặc biệt giúp đỡ về mọi phương diện: Giao thông, vận tải, huy động người v.v.. để công việc được thi hành cấp tốc".

Trong số đồ lưu niệm của viên đại tá già người Áo có một kỷ vật nữa. Đó là cuốn ký họa của họa sỹ Phạm Văn Đôn (Đại đoàn 304) vẽ về làng Lệ Sơn và làng Cảnh Dương (Quảng Bình) gồm 20 bức tranh vẽ trên giấy trắng học sinh, dán vào cuốn album bằng giấy rơm gáy đóng bằng một nẹp tre buộc chỉ.

Ở trang đầu có dòng chữ viết tay: "Thân chuyển tặng đồng chí Nguyễn Dân một hình ảnh của làng kháng chiến ở Bình Trị Thiên đã đấu tranh oanh liệt với giặc Pháp trước khi đồng chí Dân lên đường, sau một cuộc họp thân mật và ý nghĩa". VB ngày 26/8/1950 Nguyễn Chí Thanh, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Chương (ký tên).

Từ ngày trở về Áo, Ernst Frey vẫn giữ nguyên những tình cảm tốt đẹp đối với con người và đất nước Việt Nam. Với tình cảm đó, ông đã chiến đấu không mệt mỏi cùng các chiến sĩ Cộng sản và những người yêu nước ở xứ sở này cho nền độc lập, tự do. Tình  cảm đó đã thể hiện trong một bức thư ông gửi Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào năm 1992. Đó là những dòng tâm huyết của một người bạn chiến đấu thân thiết gửi cho thủ trưởng của mình:

"Vào cuối đời mình, tôi không tin rằng đó là sự ngẫu nhiên khi tôi nhận được tấm bưu thiếp của Anh. Tất cả tình yêu tôi dành cho Việt Nam và nhân dân Việt Nam, ở một chừng mực nào đó, đã tập trung vào con người Anh, vào những dòng chữ thắm thiết của Anh gửi cho tôi, đã đem lại cho tôi niềm vui không sao tả xiết. Dù có những khó khăn về ngôn ngữ, đối với tôi, Việt Nam là quê hương tôi..., nó cũng là đất nước duy nhất mà tôi sẵn sàng hiến dâng cả máu mình"

Trần Đương
.
.
.