Chuyện cũ chuyện mới trên sông Đà
Cho đến ngày hôm nay và có lẽ cho hàng trăm năm sau nữa, sông Đà, con sông hung dữ của Việt
Phần I - Chuyện cũ...
Vào mùa đông, những đêm có trăng thì thường là ánh trăng nhợt nhạt, lạnh lẽo và vẫn được gọi là trăng suông.
Nhưng giữa ngày rằm tháng 10 năm nay, trên khu vực Nhà máy Thủy điện Sơn La thuộc xã Ít Ong, huyện Mường La, trăng sáng vằng vặc. Trăng sáng đến nỗi khi chúng tôi lên tầng thượng của nhà điều độ trung tâm nhìn xuống thì thấy ánh điện từ những ngọn đèn pha dưới công trường... thật vô duyên.
Nhưng lạ lắm, lạ lắm.
Toàn cảnh công trường nhà máy thủy điện Sơn La
Một bầu không gian yên tĩnh và thong thả đang bao trùm toàn bộ công trình thủy điện lớn này. Công trường yên tĩnh một cách... đáng ngờ. Không có sự ồn ào của những dòng người; không có những băng rôn, khẩu hiệu làm sôi lên bầu nhiệt huyết trong lòng mỗi người; không có những dáng đi gấp rút, hối hả; không thấy có những buổi giao ban mà sự lo âu làm nặng trĩu những gương mặt?... Chúng tôi có cảm giác như đang đứng trước một công trình phải hoạt động cầm chừng chờ... rót vốn.

Nhưng sáng hôm nay, chúng tôi được thông báo là mọi hoạt động diễn ra hoàn toàn theo đúng kế hoạch. Ngày lễ ngăn sông và cũng là ngày khởi công Nhà máy Thủy điện Sơn La đã được ấn định vào ngày 2/12/2005, sớm hơn 1 tháng 10 ngày so với lễ ngăn sông Đà đợt I của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình vào 23 năm trước.
Khi nghe chúng tôi nói cảm giác của mình, ông Ngô Xuân Lộc, người đã từng 8 năm làm Tổng giám đốc Tổng Công ty Xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, sau này ông làm Bộ trưởng Bộ Xây dựng, rồi Phó thủ tướng Chính phủ, giải thích:
- Bây giờ, phương tiện thi công hiện đại, trình độ tổ chức chỉ huy, hợp đồng của các công ty thuộc Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà đã tiến vượt bậc so với hơn 20 năm trước, cho nên lao động thủ công đã được giảm đến mức tối đa. Mọi công việc đã được sắp xếp hết sức khoa học và tiết kiệm từng ca máy, từng nhân công... cho nên chính sự hợp lý, ngăn nắp, nền nếp đã tạo nên sự yên tĩnh như thế này.
Ông quay sang ông Trần Thọ Chữ, Giám đốc Công ty Công trình ngầm thủy điện Hòa Bình, nói:
- Hồi ấy, “thằng” này - Ông chỉ ông Chữ - “Nó” khoan đường hầm, chỉ tiêu giao mỗi tháng 15 mét chiều dài, nếu tháng nào "nó" khoan được 18 mét là công nhân được thưởng một bữa thịt lợn luộc... Còn bây giờ, nếu với đường hầm như thế thì phải khoan được cả hơn trăm mét.
Tôi nhìn ông Trần Thọ Chữ và nhớ như in cái dáng người thấp, đậm của ông lúc nào cũng như thoắt ẩn thoắt hiện trên công trường năm xưa.
Ông là một người gắn với nhiều huyền thoại và chỉ riêng chuyện ông tự học tiếng Nga để đọc thông viết thạo, đủ sức tranh luận với các chuyên gia Liên Xô về các vấn đề kỹ thuật cũng đã là một tấm gương cho những người thợ trẻ trên công trường Thanh niên Cộng sản xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình.
Hồi ấy, tôi là phóng viên Báo Công an nhân dân và đi Hòa Bình để viết về lần ngăn sông đợt I. Suốt ngày đêm, tôi lang thang trên công trường, khi thì đi với chuyên gia Liên Xô, với công nhân, khi thì đi với công an.
Tôi không thể nào quên được cái lần đến gặp Trần Thọ Chữ tại gian buồng của anh trong dãy nhà tập thể của Công ty Công trình ngầm. Vừa nói chuyện được mấy câu thì anh phải lên nhà điều độ trung tâm họp và dặn tôi ở nhà chờ. Chờ mãi và đói mềm người, tôi bèn lục chạn để bát, đồ ăn của anh và vớ được lưng xoong cơm nguội với ít mỡ lợn và bát nước mắm loại 1,1đ/lít (nếu quy theo giá phở thì khoảng 5.000 đồng bây giờ và đó là thứ nước mắm rẻ nhất). Thế là tôi trộn mỡ lợn vào cơm, rưới nước mắm và chén sạch rồi lăn ra giường ngủ.
Đến khi trời sập tối, anh về và mở chạn tìm cơm ăn. Thấy không còn gì, anh hỏi tôi: "Mày ăn hết của tao rồi à?”. Tôi ngượng ngùng gật đầu. Anh không nói gì và chạy đi. Lát sau, anh mang về 4 chiếc bánh mì loại 225gr với một hộp sữa bò Thống Nhất đã ăn dở. Tôi sáng mắt lên khi nhìn thấy bánh mì, sữa và lại thấy... đói. (Cũng phải nói thêm là ngày đó chỉ phụ nữ mới sinh con mà lại ít sữa và trẻ sơ sinh là được mua sữa. Còn với người bình thường, sữa là thứ thực phẩm cực kỳ quý hiếm và vô cùng xa xỉ).
Và vừa ăn bánh mì chấm sữa, anh vừa kể cho tôi nghe công việc chuẩn bị cho nổ hai khối thuốc hơn 90 tấn để phá đê quai hạ lưu. Chỉ một loáng, hai anh em tôi chén sạch 4 cái bánh mì, hết nhẵn hộp sữa. Anh đổ nước sôi vào hộp khuấy lên rồi rót ra hai cái bát sắt và đưa cho tôi một bát. Uống hết bát sữa loãng như nước gạo, anh bảo tôi:
- Mày muốn chứng kiến lúc nổ mìn thì từ bên công an thị xã, leo qua đồi ông Tượng, đến nơi, rúc vào gầm xe Kraz mà ngồi... Đừng có đi lăng nhăng mà lúc nổ mìn chạy không được đâu. Bây giờ tao ngủ đây. Lát nữa phải ra chỗ xếp thuốc nổ.
Đêm hôm ấy, tôi mò ra chỗ đang xếp thuốc nổ. Trời mưa bụi, bùn ngập đến lưng ủng. Hai hố mìn cơ bản đã xong, Trần Thọ Chữ và chuyên gia Bônđa Ruxép, Chánh kỹ sư nổ mìn vi sai, cùng các kỹ sư khác đo đạc, tính toán vấn đề kỹ thuật gì đó.
Dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt của một hàng rào cảnh sát, những chiếc xe Zil-130 có thùng tự đổ chở đầy thuốc nổ tiến vào bên miệng hố. Từng bao thuốc nổ như bao ximăng được công nhân ta và chuyên gia Liên Xô vác xuống.
Đến 2 giờ sáng thì 92 tấn thuốc nổ xếp xong vào hai hố. Những người công nhân rải từng bó dây truyền nổ xuống hố theo những vị trí đã được đánh dấu, rồi dây điện được nối vào và kéo lên đồi ông Tượng với khoảng cách là hơn 1km...
5 giờ sáng ngày 10-1-1983, nhân dân toàn thị xã Hòa Bình được đi sơ tán xa nơi tâm quả nổ ít nhất là 2 km. Có lẽ đó là cuộc sơ tán lớn nhất của thị xã Hòa Bình.
7 giờ sáng, công an đi kiểm tra từng khu vực và kiên quyết đưa những ai còn “ngoan cố” ở lại đến nơi an toàn.
Tôi từ trụ sở công an thị xã, trèo qua đồi ông Tượng và chui vào gầm hai chiếc xe Kraz chở đầy đá được đỗ đấu hai đuôi xe lại. Khoảng trống giữa hai đuôi xe được dùng là “hầm trú ẩn”. Trong căn hầm đơn giản ấy, có chuyên gia Bônđa Ruxép; Trần Thọ Chữ; Cuzơnhétxốp là Tiến sĩ khoan nổ, Vôlôđia; ông già Grisa; 2 công nhân nổ mìn là Miễn, Ngọc và tôi. Ông già Grisa thì tôi đã quen từ mấy ngày trước. Ông nói tiếng Việt khá tốt và rất đôn hậu. Thấy tôi run cầm cập vì rét, ông mở áo varơi ủ cho tôi.
Đúng 8 giờ kém 15 phút, còi báo động hú rền rĩ. Hai quả mìn lệnh nổ. Lệnh sơ tán được phát ra trên công trường.
Các loại xe máy ùn ùn chạy. Xe Benla gầm gào chạy trước, những chiếc máy xúc EKG nặng nề bò theo sau. Trên toàn bộ khu vực công trường rộng lớn thoắt trở nên hoang vắng.
8 giờ 30 phút, bỗng dưng, Trần Thọ Chữ “trở mặt” và đuổi tôi đi với lý do là ở đây chỉ cách tâm nổ có 400m, rất nguy hiểm. Tôi nói mãi, Chữ cũng không nghe, cuối cùng Bônđa can thiệp: “Nó dũng cảm, cho nó ở lại”.
9 giờ kém 5 phút, Bônđa và Trần Thọ Chữ so đồng hồ.
9 giờ, lệnh chuẩn bị. Vôlôđia, Bônđa, Trần Thọ Chữ, Miễn và Ngọc kiểm tra máy đo điện trở và cho thông điện. Bônđa hài lòng: "Khơraxô” (tốt).
9 giờ 9 phút, Miễn quay máy gây nổ. Có hai hộp điểm hỏa. Miễn một hộp và Ngọc một hộp.
Trần Thọ Chữ đếm giật lùi: "Chín... tám... bảy...”.
Một bầu không khí im lặng đến nghẹt thở bao trùm tất cả.
Khi Trần Thọ Chữ đếm đến “không” thì Miễn ấn nút.
Ngay tức khắc, Bônđa hét: “Một... hai... ba!” và Ngọc cũng ấn nút điểm hỏa.
Không nghe thấy tiếng nổ mà chỉ thấy hai vệt trắng bạc của luồng không khí bị ép dạt đi, rồi hai cột đất, đá, nước dựng vụt dậy ngang đỉnh đồi ông Tượng. Tiếp theo mới là âm thanh "ào... ào... ào!”. Một luồng gió mạnh hất chúng tôi từ trong gầm xe văng ra ngoài đường. Tôi chưa kịp định thần thì Bônđa túm lấy tôi, đẩy ngược vào gầm xe, đúng lúc đó, đất đá rơi xuống rào rào...
Khối thuốc nổ đã khơi thông dòng mới. Dòng nước sông Đà đang cuồn cuộn chảy theo dòng cũ đã từ ngàn đời nay đột ngột chảy ngược về thượng nguồn qua đoạn vừa bị phá và khoảng chục phút sau nó mới chịu chảy xuôi....--PageBreak--
Mọi người ôm lấy nhau hò reo. Bônđa nhấc bổng tôi lên, quay một vòng và cà bộ râu hung hung vào mặt tôi. Cuzơnhétxốp, Grisa cũng hôn tôi tới tấp. Trần Thọ Chữ lấy bao thuốc lá Nga ra, mời mỗi người một điếu. Chúng tôi lên xe Uoát chạy xuống bãi nổ. Nhưng quả nổ không được hoàn toàn như ý muốn. Bônđa có vẻ buồn. Cá nổi trắng sông, công nhân ùa ra vớt cá, có người vớt được con cá chép hơn chục kilô.
Chúng tôi đi về khu chuyên gia và thấy cảnh tượng như bị bom phá.
Có hòn đá rơi qua mái nhà, xuyên thủng ba tầng trần, đập tan một cái bàn. Có tảng đá rơi xuống đường nhựa chìm sâu cả mét. Có tảng đá rơi xuống đập tan một đầu xe Benla.
Nhưng không có ai bị thương vong, không có một ngôi nhà nào bị hỏng nặng.
Khi dòng nước càng hẹp thì sức nước chảy càng xiết. Những cục bêtông có cạnh đáy 2m, chiều cao 1,8m, cạnh trên 0,8m nặng 984kg và rất nhiều cục bêtông được kẻ dòng chữ: “Ngày hôm nay làm tốt hơn ngày hôm qua”; "Vinh quang thay những người thợ lấp sông Đà” được ném xuống bị nước cuốn trôi đi. Và ngay đêm trước khi ngăn sông Đà, một chiếc canô của Xí nghiệp Thủy công đã bị chìm, 2 chiếc xe Kraz trọng tải 12 tấn rơi xuống sông... Trong lòng đập thủy điện Hòa Bình có chiếc canô và 2 chiếc ôtô đó và cho đến khi nhà máy xây dựng xong, đã có 168 người đã vĩnh viễn nằm lại bên bờ trái sông Đà, trong đó có hơn một chục chuyên gia Liên Xô.
Những ngày trên công trường, tôi không thể nào quên được hình ảnh những chuyên gia Liên Xô kề vai sát cánh với công nhân Việt
Ông Ngô Xuân Lộc nói:
- Thời thế có đổi thay, quan điểm chính trị có đổi thay, nhưng chúng ta phải mãi mãi biết ơn Liên Xô đã giúp chúng ta xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình. Chúng ta xây dựng một nhà máy thủy điện lớn nhất Đông Nam Á, tại một vị trí cực kỳ khó mà chính người Pháp ngày trước cũng cho là điều không thể làm được, trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn mọi bề. Nếu không có Liên Xô thì không thể làm được.
Bây giờ nhìn lại “những ngày xưa ấy”, chúng ta có gì? Có lẽ chỉ có đất, đá, sức người và thực phẩm nuôi gần 3,5 vạn công nhân. Còn thiết kế nhà máy, thiết bị máy móc vật tư, phương tiện vận chuyển, xăng dầu... nghĩa là từ con bulông... cũng được chuyển từ Liên Xô sang. Ngoài ra, Liên Xô còn viện trợ cho thêm 500 triệu rúp quy đổi (khoảng 500 triệu USD). Do không hiểu mà sau này, không ít người cứ thắc mắc là “sao không có... quyết toán?”. Họ không biết rằng một công trình xây dựng theo kiểu như vậy thì quyết toán kiểu gì?
Tôi hỏi ông Ngô Xuân Lộc về lý do tại sao lại đặt các tổ máy trong lòng núi? Có phải vì sợ chiến tranh không? Và vì thay đổi thiết kế cho nên kinh phí xây dựng đắt gấp rưỡi? Ông cười và giải thích:
- Đây là vấn đề mà không phải nhiều người đã biết. Thật ra xây nhà máy trong đường hầm là điều nhiều quốc gia đã làm. Xây nhà máy trong đường hầm, tuy thời gian thi công có thể dài hơn chút ít, nhưng thân đập lại rất an toàn, còn các tổ máy, khi cần sửa chữa, bảo dưỡng dễ hơn... Nên nhớ là đập thủy điện Hòa Bình được thiết kế theo những tiêu chuẩn an toàn nhất thế giới và là loại đập thủy điện “mềm” do không dùng bêtông, cho nên dù có động đất cấp 8, cấp 9 cũng không ngại gì. Còn nếu có chiến tranh, thì chỉ cần kẻ địch phá hủy vài cột điện chính hoặc trạm biến áp đặt trên mặt đất thì nhà máy dù không hỏng cũng trở thành vô tích sự. Còn về giá cả, theo tính toán, giá thành Nhà máy Thủy điện Hòa Bình khoảng vào 2 tỉ USD, đó là một cái giá bình thường cho các nhà máy trên thế giới.
Về độ an toàn của đập thủy điện Hòa Bình ngày xưa, tôi được nghe nói là theo thiết kế chịu được khoảng 4 quả bom nguyên tử như công suất loại bom Mỹ ném xuống Nhật Bản năm 1945. Còn (nói dại mồm), nếu đập thủy điện này vỡ vào lúc nước đầy, thì ít nhất 6 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ sẽ không còn một nóc nhà và khoảng 12 triệu dân ra... cua cá hết. Nóc nhà ga Hàng Cỏ ở Hà Nội sẽ ngập dưới 30m nước, tóm lại là Hà Nội thành... hồ. Chính vì vậy mà phương án xây dựng đập thủy điện “mềm” là phù hợp với điều kiện địa lý ở khu vực này và an toàn nhất. Loại đập này có lõi chống thấm bằng đất sét, nền đáy đập được gia cố bằng bêtông và thủy tinh lỏng, bên ngoài là đổ đất, đá chịu lực cho nên không thể “vỡ ục" được. Còn nếu có rò rỉ, thẩm lậu thì có đủ thời gian sửa chữa
