Chan Mun Boy - Chiến sĩ Cộng sản Quốc tế thành người Việt Nam
60 năm trước, chàng trai 20 tuổi Chan Mun Boy được vinh dự đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản (ĐCS) Malaysia rồi lên đường tòng quân với nhiệm vụ: Đưa 5 chiếc thuyền chở 150 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng vượt eo biển Malacca cặp bến Mai Ruột (Thái Lan), để chuyển tới tiếp sức Việt Nam tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp.
Kết thúc cuộc kháng chiến vĩ đại, thần kỳ của nhân dân Việt Nam, Chan Mun Boy là một trong số rất ít những chiến binh quốc tế còn lại của Tiểu đoàn hải ngoại Cửu Long II do nhà cách mạng Dương Quang Đông có công thành lập theo chỉ đạo của đồng chí Phan Trọng Tuệ - Chính ủy Khu 9.
"Tình chung", "tình riêng" đã giữ Chan Mun Boy ở lại Việt
Để đến được nhà ông Chan Mun Boy, tôi phải nhờ người con gái áp út của ông - chị Mỹ Linh - Thường vụ Thành ủy, Chủ tịch UBMTTQ thành phố Rạch Giá hướng dẫn. Cũng giống như bao căn nhà của các cựu chiến binh khác, ấy là một căn nhà đơn sơ, nằm trên đường Nguyễn Trung Trực lồng lộng gió biển Tây Nam
Và dù chật chội nhưng trên tường vẫn được treo những tấm bằng huân chương, đó là Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Huy hiệu nghĩa vụ quốc tế,... do Đảng, Nhà nước Việt Nam trao tặng ông Chan Mun Boy.
Puồi và ký ức về những nhà cách mạng lão thành
Có họ, tên Việt Nam là Trần Văn Quang, ông Chan Mun Boy, người thương binh loại 2/4 này mái tóc đã bạc trắng, nói được 6 thứ tiếng: Anh, Pháp, Hoa, Nhật, Malaysia và Việt Nam.
Đặc biệt, ông vẫn hết sức minh mẫn khi kể về ký ức hào hùng từ khi ông còn là một cậu học sinh lớp 9, với tên gọi “Puồi”, ở một bang của Malaysia, nay là đất nước Singapore giàu có.
“Tháng 9/1941, khi đang học lớp 9 tại một trường trung học của thủ đô Kuala Lumpur thì tôi xuống đường tham gia phong trào đấu tranh chống phát xít Nhật”. Theo lời kêu gọi của ĐCS Đông Dương, tại Malaysia một phong trào kháng Nhật dấy lên. Trên ghế nhà trường, Chan không chỉ học tiếng mẹ đẻ, tiếng Anh, Trung Quốc mà học thêm cả tiếng Nhật.
Chan ghi nhớ khẩu hiệu, cũng là lời hiệu triệu đang lan rộng toàn vùng Đông Nam Á là: Đoàn sinh viên - học sinh cứu nước toàn cõi Đông Nam Á vùng lên chống phát xít Nhật. Nghe theo tiếng gọi của ĐCS Malaysia, chàng thanh niên Chan Mun Boy dần dần giác ngộ được lý tưởng: Chỉ có con đường đấu tranh mới giải phóng dân tộc. Đầu năm 1945, vừa tròn 20 tuổi, Chan Mun Boy được vinh dự đứng vào hàng ngũ ĐCS.
![]() |
| Ông Chan (người thứ tư - từ phải sang) trở lại chiến trường xưa gặp những đồng đội cũ năm 2001 tại Vĩnh Hưng (Bạc Liêu). |
Sau đó, sứ mệnh vinh quang mà đảng viên trẻ Chan Mun Boy cùng 3 người đồng chí là Ly Y Xin, Hồ Chí Trung, Minh Kim đảm nhận là tham gia cùng cán bộ cách mạng Việt Nam ở hải ngoại đưa 5 chiếc tàu chở 150 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng, vượt eo biển Malacca - nơi được xem là “tam giác quỷ” nằm giữa Indonesia - Malaysia - Singapore, cập bến tại căn cứ Mai Ruột (có tài liệu gọi là Mai Luột, một địa danh thuộc tỉnh Chanmori, miền Nam Thái Lan giáp Campuchia), rồi tiếp tục cuộc hải trình sang giúp nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp.
Chan Mun Boy cho biết, chuyến vượt biển với nhiệm vụ quốc tế như linh tính báo trước về một chuyến đi dài nên ông không dám về nhà từ biệt người thân. Đắn đo mãi, ông mới chạy về cửa hiệu của người anh cả và chỉ nói được gỏn gọn: “Anh Hai, em sắp đi làm xa”. Người anh cả ngạc nhiên, ngước nhìn thân hình gầy nhom của đứa em trai mình, nửa tin nửa ngờ: “Chú mày đi đâu và làm gì?”. Boy không dám nhìn thẳng vào mắt anh cả, giọng rụt rè: “Em đi buôn bán, chưa biết chừng nào mới trở về!”. Cả ông và người anh cả chẳng ngờ đấy là ngày anh em chia tay nhau vĩnh viễn.
Trong chuyến hải trình vào tháng 3/1947, Chan là người trẻ nhất, và được phân công làm nhiệm vụ thị thực hàng hải. Năm Đông làm trưởng đoàn, phó đoàn là Bông Văn Dĩa, chính trị viên là ông Trương Văn Kính.
Chuyến đi đầy nguy hiểm, khó khăn thử thách quyết liệt hơn cả đánh trận. Chiếc tàu phải vượt qua nhiều bãi đá ngầm, sóng dữ. Chỉ cần một sơ suất nhỏ, tàu va vào đá là xem như mất trắng. Gần cả tháng trời lênh đênh trên biển, sóng to, gió lớn, bão dữ đã làm cho nguồn nước, thực phẩm bị hư và mất mát, anh em phải ghé vào những hòn đảo mà tàu đi qua để xin nước ngọt, mua lương thực.
Rồi con tàu cũng tới được căn cứ Mai Ruột. “Trên là rừng, núi, dưới chân núi là biển. Trong những doanh trại dã chiến, anh em chúng tôi có thêm rất nhiều người bạn mới. Mọi người trò chuyện với nhau chủ yếu bằng tiếng Hoa”.
Chan cho biết, dù là một căn cứ hải ngoại, dù một tốp phải thường xuyên lên rừng đào củ mài, lấy măng tre, hái rau rừng, nấm, tốp xuống biển bắt cá, nghêu sò, nhưng cũng như bao nhiêu chiến sĩ khác, Chan và 3 người bạn “đồng hương” vẫn được sống trong khí thế của cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam, thấy được tình cảm của những chiến sĩ đa số là con em Việt kiều và những chiến sĩ du kích đến từ Lào, Malaysia, Thái Lan, Nhật.
Ông Chan kể, khi mới thành lập (16/5/1947), Tiểu đoàn hải ngoại Cửu Long II đóng tại chiến khu I Prak Poong, thuộc tỉnh Prachin Bouri, Thái Lan. Sau đó, đơn vị được chuyển về căn cứ Mai Ruột. Quân số có gần 300 cán bộ, chiến sĩ.
Ông Chan khẳng định: “Đã là chiến sĩ của Tiểu đoàn hải ngoại Cửu Long II, thì không ai có thể quên được sự kiện vào sáng ngày 7/11/1947, cả tiểu đoàn đứng trước cờ đỏ sao vàng có thêu tên đơn vị nghe Tiểu đoàn trưởng Dương Văn Phúc – tên gọi khác của đồng chí Dương Quang Đông đọc lệnh xuất phát về Việt Nam". --PageBreak--
Mỗi cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn mang trên lưng trên 20kg gồm súng đạn, lương thực và phải vượt qua nhiều địa hình phức tạp, đối mặt với bao hiểm nguy rình rập. Bọn Pháp đã huy động lực lượng theo dõi, phục kích những điểm vượt lộ. Nhiều lần, đơn vị phải “xé” ra, để đối phó, chiến đấu với địch.
Sau khi vượt lộ Chhuk - lộ chính từ thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) đi Campot, trong một trận chiến khá quyết liệt, Chan bị trọng thương, nhờ có đồng đội nhiệt tình cứu chữa nên ông đã vượt qua nguy hiểm, tiếp tục hành trình tới Việt Nam. Trong những ngày chiến đấu gian khổ đó, lương thực thiếu thốn, anh em phải tuốt lúa non nhai cầm hơi.
Do vết thương khá nặng nên ngay khi đến Quân khu 9, Chan được đưa vào điều trị liên tục gần 2 tháng. Những ngày sau đó, Chan được học chiến thuật chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, được học tiếng Việt.
Đầu mùa mưa năm sau, Chan nhận lệnh sang Mai Ruột để vận chuyển vũ khí. Ông Chan kể: “Nhiệm vụ này do anh Năm Đông trực tiếp chỉ huy. Đoàn chúng tôi gồm 7 người. Tôi phụ trách kỹ thuật máy tàu. Chuyến đầu tiên suôn sẻ nhưng cũng mất đứt cả tháng trời. Chuyến thứ hai, chúng tôi lại đi bằng tàu nhỏ với 2 máy nổ có sức ngựa mạnh hơn và được ngụy trang thành tàu buôn. Chỉ hơn 12 ngày đêm, chúng tôi đã đến Mai Ruột an toàn.

Ông Chan và người bạn đời một mực thủy chung - bà Quan Thị Mai.
Khi trở về, chúng tôi lợi dụng... mưa to để vượt biển. Ngang qua cảng Kong Pông Xôm, anh Năm Đông phát hiện có một tàu lớn cũng di chuyển trong vùng biển này và đang thẳng về hướng chúng tôi. Năm Đông báo động, tập hợp toàn đoàn và chuẩn bị tinh thần chiến đấu. Năm Đông đưa ra tình huống: nếu tàu địch phát hiện, nổ súng phải lập tức cho nổ mìn đánh chìm tàu để tránh bị lộ đường dây vận chuyển vũ khí, cương quyết không để vũ khí rơi vào tay giặc”. Rất may, chiếc tàu nọ là tàu buôn, anh em thở phào nhẹ nhõm.
Mấy ngày sau đó, chúng tôi về tới Vàm Đầm (nay thuộc huyện Đầm Dơi, Cà Mau) và vào nơi tập kết vũ khí an toàn”.
Cuối năm 1948, Chan Mun Boy được phân công về công binh xưởng để sửa chữa phục hồi nhiều máy tàu do bộ đội ta chiếm được của quân Pháp. Ông kể: “Sang công việc mới nhưng tôi vẫn không thể quên tên của những chiếc tàu nhận sứ mệnh lịch sử – sang Mai Ruột. Đó là Độc Lập, Đoàn Kết, Chiến Thắng. Có lúc, Phòng Hàng hải thuê chiếc Darathip của Thái và sau cùng, ta mua chiếc Sông Lô, có sức chở gấp 5 lần so với những chiếc trước”.
"Tôi yêu Việt Nam"
Năm 1952, trong một chuyến công tác đến vùng căn cứ cách mạng tỉnh Hậu Giang, chàng trai Chan Mun Boy 27 tuổi đã bị cô gái Quan Thị Mai hớp hồn. “Nhà cô Mai ở xã Phương Bình, Phụng Hiệp. Mai bấy giờ là Chủ tịch Hội Phụ nữ xã, là con gái thứ ba của ông Quan Thành Vũ - Chủ tịch Mặt trận Liên Việt xã lúc đó”. Rồi hai người nên vợ nên chồng.
Tình yêu đối với người vợ trẻ càng thúc giục chàng trai Chan Mun Boy xông lên phía trước. Vài ngày sau khi cưới vợ, Chan nhận lệnh biệt phái đi làm công tác Hoa vận ở một tỉnh khác. Chẳng bao lâu sau, lại được lệnh điều sang chiến trường giúp bạn Campuchia. Khi trở lại Việt Nam, Chan được phân công xuống hoạt động vùng Cà Mau. Có vợ, rồi hay tin có con, Chan càng gắn bó với Việt Nam.
Ông tiếp tục tham gia chiến đấu chống Pháp, rồi chống Mỹ. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, có rất nhiều lần Chan Mun Boy đối mặt với tình huống hiểm nghèo. Ông Chan kể, năm 1964, ông bị thương nặng ở đầu vì bị trúng đạn pháo của địch, được chuyển về dân y tỉnh. “Chiến trường ác liệt, thuốc men hạn chế nên đến năm 1970, tổ chức cho tôi được ra hoạt động công khai để về Cần Thơ điều trị”.
Đồng đội của ông kể lại: “Khi tĩnh trí, ông cứ luôn miệng nhắc về chiến trường, đồng đội, người thân. Đến lúc bình phục hẳn, Chan rất khao khát được trở lại chiến trường. Chiều ý ông, tổ chức cho ông đảm nhiệm vai trò của một đầu mối giao liên quan trọng để chuyển thuốc men vào cho du kích chiến đấu”. Đến năm 1973, khi đồng chí nữ giao liên trực tiếp với Chan hy sinh, ông bị mất liên lạc với đồng đội. “Tôi tưởng sẽ không có ngày gặp lại đồng đội anh em. Nhưng chiến thắng mùa xuân năm 1975 đã tiếp sức cho tôi”.
Ông Chan kể thêm: “Sau năm 1975, tôi gặp lại đồng chí Dương Việt Trung – Trưởng ban Hoa vận Khu Tây Nam Bộ và được đồng chí phân công phụ trách Hoa vận huyện Vị Thanh (Hậu Giang). Được một thời gian ngắn, do sức khỏe, hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, tôi được tổ chức chấp nhận cho về nhà an dưỡng”.
Năm 2004, ông Chan Mun Boy được Tỉnh ủy Kiên Giang đài thọ kinh phí để trở về thăm quê hương
Người kể chuyện chỉ vào tấm ảnh chụp với Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa và đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang Trương Quốc Tuấn, cho biết: “Nghĩa tình của ĐCS và nhân dân Việt Nam thật là cao cả. Suốt hơn 60 năm kể từ ngày tôi thoát ly quê nhà sang làm con cháu Cụ Hồ, tôi luôn cảm nhận được điều này”.
Rồi ông cho tôi xem album có khá nhiều ảnh, ghi lại những khoảnh khắc ông và bà được đi thăm lăng Bác, đi đến nhiều vùng quê của Việt Nam. Tôi rời căn nhà nhỏ mà vẫn nhớ hoài câu nói của ông Chan: "Suốt đời tôi dành cho hai tiếng Việt Nam"

