Câu chuyện thấm đẫm tính nhân văn và hòa hiếu
Trong số những người được nêu tên, Thượng nghị sĩ (TNS) John Kerry và TNS John McCain đều là những cựu binh chiến tranh Việt Nam. John Forbes Kerry (sinh năm 1943) là đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ. Trước khi trở thành vị ngoại trưởng thứ 68 của Hoa Kỳ, ông từng là một TNS và Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Thượng viện Mỹ trong nhiều năm. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, John Kerry là trung uý hải quân, chỉ huy tàu tuần tra hoạt động ở đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế cuộc chiến đã dạy cho John Kerry bài học đau thương về hậu quả khủng khiếp của chiến tranh; thấy rõ sự hy sinh vô nghĩa của binh sĩ Mỹ trong cuộc chiến sai lầm… Trở lại Mỹ đầu những năm 1970, John Kerry trở thành biểu tượng phản chiến.
Năm 1971, ông ra trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ để điều trần về chiến tranh Việt Nam. Câu chất vấn: "Làm sao có thể yêu cầu một con người phải chết cho một sai lầm?" là một trong những câu nói nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry… Cũng như John Kerry, TNS John McCain (sinh năm 1936) tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam với vai trò thiếu tá phi công. Một ngày tháng 10-1967, chiếc máy bay A-4E của John McCain bị bắn hạ khi oanh tạc Hà Nội. Thiếu tá John McCain kịp nhảy dù nhưng bị trọng thương, sau đó bị giam giữ đến khi được trao trả đầu năm 1973.
![]() |
| Đại tá Phạm Đức Đại (bên phải) trao cho Thượng nghị sĩ John Kerry chiếc mũ của phi công John McCain. |
Trở về Mỹ, John Kerry và John McCain tích cực hoạt động chính trị, đắc cử TNS Hoa Kỳ. Cả hai TNS John Kerry và John McCain đều có “duyên nợ” với Việt Nam nhưng họ đã luôn hướng tới tương lai và tác động, thúc đẩy chính quyền Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận năm 1994 và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995. Hai vị TNS này đã nhiều lần cùng nhau sang Việt Nam để giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam (POW/MIA). Ông John Kerry từng là Chủ tịch Ủy ban tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam của Thượng viện Hoa Kỳ.
Một trong những người mà hai vị TNS Hoa Kỳ thường gặp gỡ, tìm kiếm thông tin về người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam là Đại tá Phạm Đức Đại, khi đó là Giám đốc Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam), hiện đang nghỉ hưu tại Hà Nội. Riêng TNS John McCain, ngoài việc chung còn đặt vấn đề nhờ ông Đại tìm lại chiếc mũ phi công của mình đội khi bị bắn rơi xuống hồ Trúc Bạch, mà ông ta nói đây là một kỉ vật cá nhân rất có ý nghĩa…
Theo hồi ức của Đại tá Phạm Đức Đại, đầu năm 1992, ông được lãnh đạo Tổng cục Chính trị giao nhiệm vụ tiếp, làm việc với hai TNS Mỹ John Kerry và John McCain về vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Là người giữ nguyên tắc và thận trọng, ông Đại lên gặp đồng chí lãnh đạo cấp cao của Tổng cục Chính trị bày tỏ: “Thưa anh, hiện một số người Mỹ vẫn cho rằng sau chiến tranh, chúng ta còn giam giữ tù binh Mỹ. Cá nhân tôi không tin điều đó, nhưng tôi muốn hỏi anh ở vị trí cao, trách nhiệm lớn chắc anh có nhiều thông tin, thì sự thực như thế nào?”. Đồng chí lãnh đạo tươi cười khẳng định: “Anh đừng băn khoăn gì cả. Ngay khi những tù binh Mỹ đầu tiên bị bắt từ thời kì đầu cuộc chiến, Bác Hồ đã chỉ thị phải đối xử nhân đạo với họ để sau này trao trả toàn bộ cho phía Mỹ. Thực tế chúng ta đã làm đúng như vậy”.
Giải tỏa được nỗi băn khoăn, ông Đại tự tin làm việc với hai vị TNS Hoa Kỳ. Sau màn chào hỏi xã giao, ông John Kerry đưa ra một bản danh sách dài những thông tin cá nhân về hơn 1.000 trong tổng số 2.265 người Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Đại đọc lướt qua, rồi chân thành nói với ông Kerry: Đây là việc làm vượt quá khả năng của tôi. Ông có thể rút ngắn lại danh sách này? Ông Kerry đã rút ngắn lần 1, rồi tiếp đến lần 2 và những lần sau nữa theo thứ tự ưu tiên; để rồi chỉ còn 24 trường hợp cần làm rõ càng sớm càng tốt. Đây là những trường hợp mất tích có rất nhiều uẩn khúc, thậm chí một bộ phận chính giới Mỹ còn cho rằng những người này hiện (thời điểm năm 1992) vẫn đang bị bí mật giam giữ ở Việt Nam.
![]() |
| Đại tá Phạm Đức Đại (thứ hai bên trái) trao tặng TNS John McCain một số bức ảnh khi ông này bị bắn rơi xuống hồ Trúc Bạch. |
Nhận bản danh sách đặc biệt, ông Đại đã chỉ đạo các cán bộ thuộc cấp tìm kiếm trong kho tư liệu, hiện vật lưu trữ. Tuy nhiên, không một thông tin nào liên quan đến 24 người này được phát hiện. Không nản lòng, họ sang Thông tấn xã Việt Nam phối hợp kiểm tra lại toàn bộ ảnh chụp binh lính, phi công Mỹ bị bắt trong chiến tranh và đã thu được thông tin quý giá: Bức ảnh xác chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Quảng Bình, có số hiệu máy bay và ảnh xác viên phi công Morison (rõ cả mặt và bảng tên cùng số hiệu trên bộ quần áo bay). Phi công Morison là người có tên trong bản danh sách 24 trường hợp đặc biệt mà TNS John Kerry trao cho Đại tá Phạm Đức Đại. Trong lần sau trở lại Việt Nam, khi xem các bức ảnh này, cả hai ông John Kerry và John McCain đều kinh ngạc và xúc động nói: “Từ lúc này, chúng tôi hoàn toàn không tin vào việc người Việt Nam còn giam giữ các quân nhân Mỹ. Chúng tôi đã hiểu sự chân thành của các bạn Việt Nam”.
Tuy đạt được nhiều kết quả trong việc tìm kiếm thông tin, hài cốt người Mỹ mất tích, nhưng nguyện vọng lớn của TNS John McCain là tìm lại chiếc mũ phi công mà ông sử dụng khi bị bắn rơi, thì rất khó đáp ứng bởi chẳng khác nào “mò kim đáy bể”… Được sự đồng ý của cấp trên, ông Đại đã chỉ đạo một số cán bộ nỗ lực tìm kiếm qua hàng trăm trang hồ sơ, báo cáo và nhiều nhân chứng; cuối cùng xác định được chiếc mũ của John McCain lưu giữ trong kho của Huyện đội Từ Liêm (Hà Nội).
Sau khi kiểm tra những thông tin về chiếc mũ phi công chiến đấu đặc biệt này và xác định nó đúng là của John McCain, tháng 11/1992, phía Mỹ đã sang Hà Nội và tổ chức một buổi lễ tiếp nhận long trọng. Vì lí do đột xuất, TNS John McCain không có mặt và đã ủy nhiệm TNS John Kerry nhận lại kỉ vật của mình đã lưu lạc một phần tư thế kỉ.
Giới truyền thông Mỹ với công nghệ hiện đại đã nhạy bén lập cầu truyền hình tường thuật trực tiếp sự kiện này tới toàn thể công chúng Mỹ. Nhận chiếc mũ của phi công John McCain từ Đại tá Phạm Đức Đại, TNS John Kerry đã xúc động nói những lời chân thành từ trái tim mình: “Tôi tin rằng, với thiện chí của phía Việt Nam, quan hệ hai nước sẽ sớm được bình thường hoá và phát triển không ngừng”


