Bạo chúa trong lò nướng thịt
Vàng Pao tỏ ra là một viên chỉ huy có "biệt tài" biến vợ lính thành những người đàn bà góa. Trong 30.000 lính biệt kích dưới quyền ông ta, đã có tới hơn 3.200 lính bỏ mạng, gần 5.500 người khác bị thương trong vòng 4 năm 1967-1971.
Các đơn vị biệt kích vừa hình thành, Vàng Pao đã tung ngay vào việc bắn phá, quấy nhiễu đối với cả quân trung lập của Kong Le lẫn bộ đội Pathet Lào. Hàng loạt cầu cống, kho bãi trong vùng Cánh Đồng Chum đã bị công binh Mèo phá sập. Nhiều bản Mèo ủng hộ Pathet Lào hoặc trung lập bị lính Vàng Pao đốt sạch, phá sạch.
Những chiến dịch điên cuồng
Sự khiêu khích đã bị trả đũa thích đáng. Tháng 5/1961, cả quân trung lập lẫn bộ đội Pathet đều mở những đợt tấn công mạnh mẽ vào các đơn vị biệt kích Mèo đồn trú. Bộ chỉ huy CIA ở Padoung bị tiến chiếm và san phẳng, buộc Vàng Pao phải di dời toàn bộ lính tráng về căn cứ mới ở Pha Khao, cách Padoung 13 km. 9.000 dân thường Mèo bị lính biệt kích, dưới sự chỉ huy của Edgar Buell cưỡng bức lùa theo sau làm bia đỡ đạn.
Xung đột vũ trang ở Lào lên cao buộc quốc tế phải can thiệp. Tháng 7/1962, Hiệp định Genève về Lào được ký kết giữa Mỹ và Liên Xô, qui định quân đội và nhân viên quân sự của nước ngoài của tất cả các bên phải rời khỏi đất Lào.
Không thể công khai việc phá hoại hiệp định đã ký, nhưng cũng không từ bỏ vị trí "bà đỡ" cho đạo quân biệt kích của Vàng Pao, CIA đã thay đổi chiến thuật. Toàn bộ các sĩ quan, huấn luyện viên, lính biệt kích Mỹ và Thái Lan được CIA rút hết về bộ chỉ huy mang mật danh QH 333 mới lập trên đất Udon Thani, một tỉnh Đông Bắc Thái Lan. Từ đó, chúng dùng trực thăng qua lại đất Lào mỗi ngày tiếp tục công việc huấn luyện và chỉ huy biệt kích Mèo đánh phá các cứ điểm đối lập.
Trong hai năm 1963-1964, biệt kích của Vàng Pao, dưới sự điều khiển của hai cố vấn Mỹ William Young và Yoseph Flipe đã liên tục tấn công vào thủ đô kháng chiến của Pathet Lào ở tỉnh Sầm Nưa.
Một bộ phận khác được Anthony Poe, đóng đại bản doanh tại thị trấn Longtieng, liên tục sử dụng chiến thuật trực thăng vận tấn công đốt phá các làng Mèo trên các sườn núi quanh khu vực để tiêu diệt và khống chế những bộ phận người Mèo ngã theo Pathet Lào. Cứ đốt phá xong, lính Mèo lại lập tức xây dựng các đường băng thô sơ để tiếp nhận hàng hóa viện trợ của Mỹ do người của Buell chuyển đến nhằm mua chuộc người Mèo ngả theo Vàng Pao.
Khi Mỹ bắt đầu chiến dịch ném bom miền Bắc Việt Nam lần hai, Vàng Pao còn tỏ ra đắc lực hơn nữa với ông chủ khi cố sống cố chết xua lính tấn công chiếm giữ ngọn núi Phu Pha Thi cao 1.730m, cách biên giới Việt Nam chỉ 30km (năm 1966). Một pháo đài được dựng lên trên đỉnh núi này để biến nó thành một trung tâm hướng dẫn radar chính xác trong mọi điều kiện thời tiết cho máy bay Mỹ oanh tạc các mục tiêu ở miền Bắc Việt
Kế hoạch làm tay sai của ông ta đã bị trừng phạt nặng. Tháng 1/1968, Pathet Lào đã tấn công phá hủy pháo đài này, đồng thời đồng loạt tấn công biệt kích Mèo của Vàng Pao trên hàng loạt cứ điểm khác. Những đợt tấn công này kéo dài cho đến tận những năm đầu thập niên 1970, đẩy lùi ảnh hưởng của Vàng Pao và quyền kiểm soát quân sự của biệt kích Mèo ra khỏi khu vực Sầm Nưa.
Thất bại, Vàng Pao đành cho các đơn vị biệt kích về co cụm xung quanh khu vực các quận Long Pot, Long Tieng và căn cứ Sam Thong thuộc tỉnh Xiêng Khoảng. Cứ rút khỏi chỗ nào, Vàng Pao lại gọi ngay máy bay của Mỹ đến ném bom thiêu rụi khu vực đó.
Tội đồ của dân tộc
Không chịu nổi bom đạn Mỹ, dân thường các bản Mèo đã phải chấp nhận "di tản chiến thuật" dưới sự thúc ép của các họng súng biệt kích. Theo tính toán của cơ quan USAID (Viện trợ Mỹ), đến giữa năm 1971, đã có tới 150.000 dân miền núi, trong đó 60% là người Mèo đã buộc phải rời làng từ núi cao xuống sống tập trung ở các trại tị nạn chen chúc nhau trong một khu vực hình lưỡi liềm dài 60km bao quanh Long Tieng.
Nhiều cộng đồng dân Mèo từ Sầm Nưa đã phải di chuyển tới 10-15 lần trong những năm 1967-1968 trước khi đến được khu định cư Ban Son gần Long Tiane. Có ít nhất 35.000 người Mèo khác đã bỏ mạng trong những trận mưa bom, chết trong khi di chuyển nơi ở, hoặc chạy loạn.
Một số lượng lớn khác chết dần chết mòn vì các thứ bệnh nhiệt đới do chưa kịp thích nghi với sự thay đổi độ cao của môi trường sống, đồng nghĩa với thay đổi nhiệt độ và khí hậu.
Điều kiện sống trong các trại tị nạn rất tồi tệ. Trại được lập trên một vùng bình nguyên cao 800m so với mực nước biển, kẹt giữa Cánh Đồng Chum và đồng bằng
Mùa mưa kéo dài, toàn khu trại biến thành một bãi lầy khổng lồ đầy ruồi nhặng, trở thành cơ hội tuyệt vời cho các loại dịch bệnh phát triển. Lương thực, thực phẩm, thuốc men đều do CIA cấp phát nhưng không bao giờ đủ nên lượng người chết tăng nhanh mỗi ngày.
Nhiều cuộc bạo loạn chống Vàng Pao đã nổ ra trong toàn khu vực trại nhưng đều nhanh chóng bị Vàng Pao dập tắt. Những kẻ tham gia, những người tình nghi đều bị hành quyết ngay, không điều tra, không xét xử, bởi không có đủ thời gian và nhân sự để tiến hành công việc "rắc rối và kém hiệu quả" ấy.
Không còn đường sống nào khác, cũng không tìm đâu ra nguồn sống nếu bị cắt khỏi viện trợ ít ỏi của USAID, những người Mèo trong các trại tị nạn chỉ còn duy nhất một chọn lựa, đó là cầm súng và chiến đấu cho tham vọng phiêu lưu của Vàng Pao - người mà họ bị buộc phải coi là thủ lĩnh tối cao.
Sự tàn bạo, thối nát, coi rẻ mạng sống đồng bào của tên bạo chúa đã được đúc kết trong một nhận xét nổi tiếng của chính Vàng Pao: "Không ai bỗng nhiên muốn cầm súng cả. Người Mèo sẽ chiến đấu hăng hơn nhiều, nếu ta kê súng vào đầu và đe dọa người thân, gia đình của họ!".
Không ngần ngại nướng quân, Vàng Pao tỏ ra là một viên chỉ huy có "biệt tài" biến vợ lính thành những người đàn bà góa. Trong 30.000 lính biệt kích dưới quyền ông ta, đã có tới hơn 3.200 tên bỏ mạng, gần 5.500 tên khác bị thương trong vòng 4 năm 1967-1971.
Trong khi đó, thủ lĩnh tối cao của họ vẫn điên cuồng lao theo tham vọng quyền lực, càng ra sức bắt lính. Khi không đủ số lượng thanh niên Mèo để bổ sung quân số, ông ta đành phải dùng súng uy hiếp và bắt thêm 40% người Lào Thơng, người Dao vào biệt kích.
Thú nhận với tờ New Yorker vào năm 1968, ngay cả "chuyên gia" Edgar "pop" Buell cũng không khỏi rùng mình: "Chúng tôi vừa tuyển mộ được 300 tân binh. Khoảng 30% trong số đó từ 14 tuổi trở xuống. 10% mới lên 10. 30% ở khoảng 15-16 tuổi. Số còn lại (khoảng 40%) thì từ 45 tuổi trở lên. Những người có độ tuổi ở khoảng giữa đều đã... chết sạch!
Sự bạo ngược của Vàng Pao đã khiến một làn sóng bất mãn, chán ghét ông ta dấy lên trong nhiều bản làng Mèo. Đầu thập niên 1960, người Mèo oán ghét Vàng Pao vì ông ta tiếm quyền lãnh đạo bộ tộc Mèo của Touby Lyfoung, nhưng vì sự đe dọa trả thù, các làng Mèo vẫn miễn cưỡng cho con em họ cầm súng cho Vàng Pao. Nhưng đến đầu thập niên 1971, giới hạn của sự phục tùng và sợ hãi đã chấm dứt.
Năm 1970, quận Long Pot bổ sung cho Vàng Pao 60 tân binh Mèo. Một năm sau, không một thanh niên nào trong số này còn sống lành lặn. Tháng 1/1971, Vàng Pao lại yêu cầu quận Long Pot gửi cho ông ta tất cả những thanh niên còn lại, đồng thời dời làng đến các khu tị nạn.
Bị từ chối, Vàng Pao lập tức cắt đứt viện trợ cho Long Pot và đe dọa sẽ ném bom napalm hủy diệt các làng. Chính Cảnh sát trưởng quận Long Pot, ông Ger Su Yang đã dùng uy tín của mình đứng ra vận động dân chúng không tuân lệnh Vàng Pao.
Bị ném bom, dân chúng tản vào rừng lẩn trốn. Bom dứt, nghe lời cảnh sát trưởng, họ lại quay lại trung tâm quận, quyết bám đất giữ làng, chống trả những đợt tấn công của lính Vàng Pao. Ger Su Yang tuyên bố: "Long Pot là nhà của chúng tôi, chúng tôi sẽ ở lại và gìn giữ nó. Vàng Pao không thể đem thanh niên của chúng tôi đi nướng mãi được"!
(Còn nữa)
