Bài học lớn từ nữ Vua nhỏ tuổi

Thứ Sáu, 08/10/2010, 15:51
Tương truyền rằng, sở dĩ Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý vào tay nhà Trần. Sự thật lịch sử có phải như thế không? Tại sao gần một nghìn năm sau, vị vua duy nhất là nữ của Việt Nam chưa được lịch sử đánh giá một cách công bằng theo góc nhìn hiện đại?

Trong dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, đoàn nhà báo chúng tôi trở lại Bắc Ninh - nơi phát tích triều Lý (1010-1225) trong lịch sử Việt Nam - làm phóng sự về sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Sau khi đến dâng hương ở Đền Đô (nơi thờ 8 vị vua nhà Lý) tại Đình Bảng, huyện Từ Sơn, chúng tôi không quên đến thắp hương đền thờ Lý Chiêu Hoàng, vị vua thứ 9 và cũng là vị vua cuối cùng của nhà Lý. Ở vào buổi chiều chạng vạng, chúng tôi lặng đi trước ngôi đền dáng dấp thâm nghiêm, dường như ít người qua lại.

Tương truyền rằng, sở dĩ Chiêu Hoàng không được thờ chung tại đền Đô mà phải thờ riêng vì bà là người bị xem là có tội với dòng họ Lý khi để mất nhà Lý vào tay nhà Trần. Sự thật lịch sử có phải như thế không? Tại sao gần một nghìn năm sau, vị vua duy nhất là nữ của Việt Nam chưa được lịch sử đánh giá một cách công bằng theo góc nhìn hiện đại?

Hẳn nhiều người đã biết, Lý Chiêu Hoàng (1218-1278), làm vua từ năm 1224 đến năm 1225. Năm 1224, thế của các quan lại nhà Trần trong triều nhà Lý đang mạnh, đã ép vua Lý Huệ Tông đi tu. Do vua Lý Huệ Tông không có con trai, nên phải lập công chúa Chiêu Thánh làm Thái tử, rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo, gọi là Lý Chiêu Hoàng.

Thế rồi, năm 1225, họ Trần nắm giữ binh quyền và các chức vụ quan trọng trong triều. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ đã đưa cháu họ là Trần Cảnh, con của Trần Thừa, 8 tuổi vào cung làm Chánh thủ hầu hạ Lý Chiêu Hoàng. Trần Cảnh được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa. Vì thế, theo kịch bản soạn sẵn, Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng. Đây quả là cuộc chuyển giao quyền lực hi hữu trong triều đại phong kiến Việt Nam. Các nhà sử học đánh giá là cuộc "lật đổ" tốn ít xương máu của nhân dân nhất.

Cổng đền thờ Lý Chiêu Hoàng mới được xây dựng từ năm 1995.

Trong cuốn "Đại Việt Sử ký toàn thư", nhà sử học Ngô Sỹ Liên từng chép rằng:

"... Một hôm, Cảnh lúc ấy mới lên 8 tuổi, phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng.

Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?".

Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó". Cảnh lại về nói với Thủ Độ.

Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng rồi".

Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng:

"Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nỗi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói "Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay". Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết".

Tháng 12, ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế...".

Nếu đánh giá sự kiện trên theo phép biện chứng, thật khó tưởng tượng một vị vua mới 8 tuổi như Lý Chiêu Hoàng lại có thể  xuống một Chiếu chỉ nhường ngôi chặt chẽ văn phạm, lời lẽ cao sang, nghĩa sâu tầm vóc, khẩu khí hào sảng kiểu bậc "Thiên tử" như vậy.

Từ Chiếu chỉ này, diễn ra một cuộc chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần để Việt Nam có một hào khí của thời đại Đông A với 3 lần chiến thắng giặc Nguyên Mông, giữ nguyên bờ cõi Việt. Phải chăng đây là công trạng lớn nhất của Lý Chiêu Hoàng với hai năm làm vua? Nếu ai đó kết tội vị vua nữ này "để mất ngôi" phải chăng là oan cho một bậc Thiên tử? Tôi thiển nghĩ rằng, vua Lý Chiêu Hoàng tuy còn nhỏ tuổi, nhưng chính là người hiểu lòng dân đất Việt: Khi thấy triều Lý đã vào kỳ thoái trào, đã chủ động chuyển giao giang sơn cho nhà Trần mà không để xẩy ra những cuộc giao tranh đẫm máu, không để xảy ra loạn sứ quân chia rẽ bờ cõi… Cứ theo lý mà nói đấy quả là vị vua đã đặt quyền lợi của đất nước, của nhân dân lên trên hết, rất đáng được lịch sử tôn vinh.

Nhưng có người sẽ đặt câu hỏi: vì sao các quan đại thần nhà Lý - những vị quan văn võ song toàn lại có thể ngồi yên để Lý Chiêu Hoàng nhường cơ nghiệp cho Trần Cảnh và nhà Trần? Họ cũng không cầu viện "cõng rắn cắn gà nhà"?. Hẳn nhiều người thuộc lịch sử Việt Nam đều biết, đầu thế kỷ XI, Lý Công Uẩn sáng lập triều đại nhà Lý, một triều đại kéo dài hơn 200 năm (1010-1225). Một trong những công trạng lớn của nhà Lý là đặt nền tảng vững chắc cho đất nước qua việc dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La với tên mới là Thăng Long. Công trạng với dân tộc như thế, hẳn những quan lại trung thần xung quanh vị vua Lý Chiêu Hoàng còn nhiều lắm. Nhưng vì sao họ vâng thuận Chiếu chỉ?

Vẫn biết thế nhà Trần đang mạnh, chống lại nhà Trần lúc ấy khác gì trứng chọi với đá. Nhưng nếu có một thế lực nào đó của nhà Lý động binh và manh động kiểu "được làm vua thua làm giặc" thì hẳn người dân Việt hồi đó dễ mà "máu đổ thành sông xương chất thành núi". Nhưng một số quan lại nhà Lý lặng lẽ rời khỏi đất nước, vượt biển sang Hàn Quốc, tránh cho nhân dân lao vào cuộc binh lửa. Để rồi hàng trăm năm sau, con cháu lại tìm về nhận quê cha đất tổ. Đó há không phải là công lớn của triều đại nhà Lý hay sao?

Có thể nói, với cuộc chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần (1225), Lý Chiêu Hoàng xứng đáng là người đặt nền móng cho danh hiệu “Thành phố Vì hoà bình” của Hà Nội hiện nay. Thiển nghĩ, các nhà nghiên cứu lịch sử nên "giải oan" cho vua Lý Chiêu Hoàng

Nguyễn Hồng Thái
.
.
.