Ăn của rừng rưng rưng nước mắt
Món gỏi óc khỉ ở nhà hàng Bình Minh X. (Xuân Mai, Hoà Bình) chỉ dành cho khách thân quen. Óc khỉ được lấy trực tiếp ngay trên bàn nhậu. Đầu bếp dùng máy cạo râu đi vài đường quanh vùng sọ, sau đó lấy búa đập, mảng sọ khỉ bung ra để lộ vùng bán cầu não còn nguyên những nếp nhăn viền hồng đường máu…
Mặc cho con khỉ giãy chết dưới gầm bàn, các thực khách vô tư dùng món gỏi "có một không hai" với chai Rivaley.
Với khách nhậu, hình như càng nhiều tiền, càng phong lưu thì nhu cầu thưởng thức đặc sản càng "quái chiêu". Nắm được tâm lý này, một số nhà hàng có hướng đầu tư cho những món tuyệt chiêu của mình, ngõ hầu thỏa mãn gu thưởng thức của dân chơi.
Nhà hàng B. “Kích 1” có màn pha huyết rắn hổ với rượu từa tựa vở của Sơn đông mãi võ: gã đồ tể khệnh khạng đi lại bàn của "thượng đế" với con rắn hổ quàng vòng vèo quanh người. Nhanh như chớp, gã chụp gáy con rắn mặc cho nó oằn xiết. Gã bấm đuôi, con rắn hơi khờ và gã dễ dàng giơ phần đuôi rắn lên cao. Lưỡi dao mổ Thụy Điển lách nhẹ, dòng máu đỏ ngầu xả vào bát rượu sùi bọt sẫm dần... Chỉ sau 20 phút, món rắn bầm xả ớt và cháo gạo lứt được mang lên, bát rượu kia xoay tua dốc thẳng vào năm cái miệng...
Chưa bao giờ trên khắp ba miền, từ thành phố, đồng bằng, miền núi đến hải đảo có nhiều những quán ăn trưng hai chữ “đặc sản” như bây giờ. Đặc sản không những "ngự" tại các nhà hàng bề thế mà còn len lỏi vào từng hẻm nhỏ. Trong những món đặc sản đó, thịt thú rừng vẫn là món chủ đạo và được ưa chuộng. Giá cả thì vô chừng. Càng hiếm, giá càng đắt.
Đã vào quán nhậu đặc sản ít ra phải là dân có máu mặt chứ nhìn vào thực đơn: 80.000 đồng/đĩa chim đa đa; 100.000 đồng/con le le hấp muối, 300.000đồng/kg chồn hương... hay những món kiểu như tiết canh dơi, ngựa, tiết canh mèo rừng, rượu tiết rắn hổ, rượu ngâm cà dê, bò cạp, bìm bịp... thì người có thu nhập thấp không thể bén mảng. Phải chăng họ đang đua nhau ăn cái nhãn hiệu của món thịt thú rừng?...
Khi tôi hỏi mỗi ngày có khoảng bao nhiêu tạ thịt thú rừng được tiêu thụ trong phạm vi mấy tỉnh miền Đông và Tp. HCM, một chủ quán thú rừng ở Tp. Biên Hoà nói: “Có tài thánh cũng chẳng thống kê được. Đặc sản thú rừng trong
Trở lại thị trấn Xuân Mai cách Hà Nội khoảng 30km về phía tây, tôi nhớ lại ngày xưa, ngay gần khu Đá Bạc, một lần bà con bắn được cả một con hổ bạch khi nó tìm về phá chuồng bắt lợn của bà con. Vậy mà hôm nay, cái cung đường Xuân Mai - Lương Sơn, rừng “bị đuổi” đi tận đâu, thay vào đó là vô số nhà hàng, quán ăn đặc sản thú rừng cùng nhiều loại rượu ngâm các loại con và các chi tiết mà người đời cho là quý hiếm.
Tại một nhà hàng, ông chủ quán không hề giữ kẽ: “Thực đơn của chúng em có: chim đa đa quay, gà rừng luộc, cheo xào, lợn rừng nướng, cầy hương om nấm, sơn dương xào xả ớt, chim cu tần thuốc bắc, cơm lam... giá cả cũng bình dân. So với mặt bằng đặc sản thì chúng em là thuần túy nhất hạng. Các bác vào đây là may đấy! Vô phúc mà ghé mấy cái nhà sàn kiểu cọ, non bộ dở hơi láng nháng màu mè và khuếch trương nào là đồ ăn thức uống mang bản sắc dân tộc..., thì giá cả có mà lên gấp rưỡi! Gấp rưỡi mà còn gặp thịt pha, thịt giả nữa”.
Tôi hỏi lại: “Thế các bác làm thế nào mà sẵn nguyên liệu gốc thế? Sao bảo thú rừng đã cạn kiệt rồi cơ mà?”
"Ai bảo cạn kiệt? Cuộc chơi đặc sản này là từ thô sơ đến hiện đại. Cái công-xóc-xi-om này bắt đầu từ cái anh dân tộc chuyên săn bắt, cạm bẫy... tận rừng sâu. Khi anh ta có hàng, lập tức có chân rết thu gom (thậm chí chân rết đặt tiền trước hoặc tay thợ kia bán thú non). Hàng được tập kết, ngụy trang và lên kế hoạch vận chuyển. Từ công đoạn này thông tin liên lạc được hiện đại bằng bộ đàm (trong rừng) và điện thoại di động. Thú rừng được đưa theo từng dây về từng cụm nhà hàng đặc sản đặt trước. Những con thú to như lợn rừng, mễn, gấu... đều có nơi nhốt riêng và chỉ ngả ra khi đủ số lượng dự trù của các nhà hàng. Ví như hôm nay, các bác bàn bên kia cần cái tay gấu hầm với đỗ trọng và quy thục đặt từ trước, tôi phải phôn dựng hết các mối dậy trong vòng hai trăm cây số. Có là gật và không là lắc! Vậy mới dám chắc như cua gạch bảo khách rằng, hôm nay bác ấy có đi suốt gầm trời này cũng không còn món này. Tuy nhiên, với những loại thú đơn giản như cheo, chồn, dúi, rắn, rùa, ba ba... thường gặp là gom nhốt ở phía sau...".

Những con tê tê vận chuyển trái phép trên cung đường Cao Bằng - Trùng Khánh.
Chiều khách, chủ quán dẫn tôi ra vườn. Dưới bóng mát của cây xanh là hai dãy chuồng thiết kế theo từng ngăn, từng ô bằng lưới sắt. Trong một cái chuồng có 3 con dúi đang trốn dúi dụi vào nhau. Gian bên là chú cầy lông dày và mượt, mắt liếc đảo điên, sợ hãi và căm thù. Trong góc khuất, dăm chú thỏ mắt đỏ hồng khép nép nhâm nhi rau muống. Xa chút nữa, thêm một hàng dây phơi đầy ấn tượng với những chổi lông gà sắc tía, từng cặp chân bìm bịp quắt queo, đôi cặp gạc sơn dương...
Hiện thú rừng ở Việt
Ở Bình Thuận, có địa phương cấp xã có đến 40% đàn ông thường xuyên tham gia bẫy thú. Ở khu rừng cấm Nam Cát Tiên, số người vi phạm săn bắt thú rừng mỗi năm một gia tăng: năm 1990 chỉ 5 vụ thì năm 2002 lên đến hơn 100 vụ. Ấy là chỉ nói hẹp ở những vụ vi phạm có lập biên bản, có xử lý chứ nói rộng ra như bẫy, bắn lén lút, thủ đoạn hành nghề cao siêu, thậm chí thông đồng với kiểm lâm, gác rừng... để bẫy và săn thú trót lọt hằng ngày thì không kể xiết.
Người ta vẫn lý giải rằng, đa số những người săn bắt, bẫy chim thú là những người nghèo, ít am hiểu luật pháp. Nhưng chúng ta đang quên một nguyên nhân của sự tàn sát thú rừng, đó là khách hàng. Có cầu ắt có cung, và ngược lại. Lợi nhuận đã làm con người bất chấp luật pháp với những thủ đoạn săn bắt thú rừng, chim muông vô cùng đa dạng và dã man
