28 tuổi và 28 năm

Chủ Nhật, 30/04/2006, 08:15

28 tuổi là tuổi của nhà quay phim Vũ Phạm Chuân khi anh ngã xuống trên mảnh đất Quảng Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ gian khổ. 28 năm là quãng thời gian gia đình và đồng đội trải qua bao gian nan mới tìm được mộ anh tại một cánh rừng già miền Tây tỉnh Quảng Nam, để đưa hài cốt của anh về yên nghỉ bên mộ cha mẹ anh như lời trăng trối của người mẹ trước khi mất.

Cách đây gần bốn mươi năm tôi đã biết đến tên anh. Khi ấy, lần đầu tiên tôi được đặt chân đến chiến trường Quảng Đà (nay là tỉnh Quảng Nam), mảnh đất từng thấm máu của biết bao nhà văn, nhà báo, văn nghệ sĩ hy sinh trong những năm tháng chiến đấu quyết liệt, trong đó có Trần Văn Anh, Dương Thị Xuân Quý, Văn Cận, Nguyễn Mỹ, Nguyễn Trọng Định, Phương Thảo, và cả máu của một người bạn học cùng lớp tại khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp với tôi: Đinh Dệ…, cái tên Vũ Phạm Chuân được nhiều người nhắc đến.

Hiện tại ở Nhà bảo tàng Quân khu Năm, thành phố Đà Nẵng có một tảng đá lớn, trên đó khắc tên của 195 liệt sĩ, là "các chiến sĩ văn học nghệ thuật, báo chí hy sinh trên chiến trường liên khu Năm vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội", có tên nhà quay phim chiến trường Vũ Phạm Chuân.

Cậu bé bán kem và con lợn cưới

Vũ Phạm Chuân sinh ngày 15/8/1940 tại Hà Tây, trong một gia đình dòng dõi trí thức lớn... Anh là con trai út của một gia đình có tới chín người con, sau này đều là những người thành đạt. Anh là cháu nội của cụ Vũ Phạm Hàm, người làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, Hà Tây, một danh nhân rất nổi tiếng dưới triều Nguyễn, từng ba lần thi hương, thi hội, thi đình đều đỗ đầu. Cụ là bậc danh nho uyên bác đã để lại nhiều tác phẩm văn thơ có giá trị cho nền văn học nước nhà.

Đạo diễn điện ảnh Vũ Phạm Từ và nhà báo Vũ Phạm Chánh còn nhớ như in những kỷ niệm về cậu em trai thân thiết từ thời còn nhỏ. Bảy tuổi, Vũ Phạm Chuân đã theo mẹ rời Hà Nội tản cư lên Bắc Giang, Thái Nguyên, khi cha và các anh chị lớn đi kháng chiến chống Pháp. Mười lăm tuổi, Chuân đã xung phong vào đội thanh niên xung kích đi làm đường tại Thái Nguyên - Lạng Sơn. Hòa bình lập lại, trở về Hà Nội, nhà nghèo lại đông anh em, Chuân vừa đi học vừa phải đi bán kem để thêm tiền phụ giúp bố mẹ.

Học hết phổ thông, Chuân được cử đi học quay phim bốn năm tại Trường Điện ảnh nổi tiếng của Liên Xô (VGIK), sau đó về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam. Anh  đã quay một số bộ phim truyện khá nổi tiếng như Lửa rừng, Rừng O Thắm… Bộ phim Rừng O Thắm hoàn thành, chưa kịp công chiếu, thì Chuân có lệnh tập trung vào chiến trường miền Nam. Trước khi đi, Chuân đã có người yêu là diễn viên của Nhà hát giao hưởng, nhạc, vũ kịch Việt Nam. Hai người hứa hôn, hẹn khi Chuân từ chiến trường trở về sẽ tổ chức lễ cưới. Mẹ anh lặng lẽ mua một con lợn giống, hàng ngày chăm chút nuôi nó, định bụng để dành làm đám cưới cho cậu con trai út từ chiến trường trở về.

"Chưa làm được một phim tốt thì chưa ra, dù có phải hy sinh, gian khổ"

Vũ Phạm Chuân lên đường vào chiến trường miền Nam ngày 23/1/1968, đúng vào dịp Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam trong Tết Mậu Thân. Những kỷ vật anh để lại sau khi hy sinh rất ít ỏi. Ngoài hai lá thư anh viết từ chiến trường gửi ra cho mẹ và các anh chị em, chỉ còn lại một cuốn sổ tay nhỏ, loại sổ lịch bỏ túi của Báo Nhân dân mà anh dùng để ghi vội những điều hết sức vắn tắt về những sự kiện xảy ra đối với anh từ ngày anh bắt đầu rời Hà Nội vào chiến trường miền Nam và một cuốn sổ ghi lại một số bài thơ anh viết mà bạn bè còn giữ được.

Có thể coi cuốn sổ nhỏ đó là cuốn Nhật ký chiến trường mà Vũ Phạm Chuân để lại. Đầu cuốn sổ lịch nhỏ này có in trích đoạn thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 6-1967 gửi Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam: "17 triệu đồng bào miền Bắc quyết giữ trọn lời thề cùng 14 triệu đồng bào miền Nam ruột thịt sát cánh kề vai chiến đấu để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước".

Mang theo hành trang là chiếc máy quay phim và cuốn sổ tay có dòng thư đó của Bác Hồ, Vũ Phạm Chuân trải qua hàng tháng trời lội bộ vượt Trường Sơn để đến chiến trường Quảng Đà vào giữa năm 1968. Những dòng nhật ký ngắn ngủi anh để lại, tuy không nói được đầy đủ những gian khổ, hy sinh, mất mát trong chiến tranh, nhưng cũng đủ phác họa hình ảnh hào hùng của những người lính, của những người quay phim, viết báo trong những năm tháng gian khổ này.

Những ngày đói quay, đói quắt trên chiến khu, mỗi người một ngày chưa được nửa lon sữa bò gạo, anh vẫn canh cánh trong lòng về nhiệm vụ của người chiến sĩ quay phim: “Nghe nói cậu Định (nhà báo, nhà thơ Nguyễn Trọng Định) phóng viên Báo Nhân dân hy sinh… Vẫn đói, nhưng đấy không phải là chủ đề, vấn đề chính là phải làm được phim và phải làm thế nào?…".

Vũ Phạm Chuân đã có mặt ở nhiều điểm nóng trên chiến trường Quảng Đà, từ Duy Xuyên, Đại Lộc đến Bắc Hòa Vang, kể cả đi xuống tận các đơn vị chiến đấu của bộ đội địa phương đánh địch trên đèo Hải Vân. Anh đã viết những dòng nhật ký thật ngắn gọn, nhưng đầy sống động:

"21/8: Sáng nay nổ súng. Địch phản ứng mạnh, dội bom tắm đạn suốt một ngày. Chiều theo lệnh về E bộ, gặp hai cái (trực thăng) HU.1A chết tiệt. Quay được khá.

22/8: Sáng dậy, đang ngồi tán gẫu, nghe nói bắn cháy kho xăng, chạy ra đài quan sát. Quay một bữa no máy bay.

23/8: Cả ngày rất mệt vì bom thả gần liên tục. Quay được một số cảnh tốt, nhưng cái cốt vẫn chưa có".

Trong bức thư đề ngày 4/8/1968 gửi cho anh trai là đạo diễn Vũ Phạm Từ, Vũ Phạm Chuân viết: "Công việc của chúng em hiện nay đang phát triển tốt, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn; có những khó khăn chung của chiến trường, như rất ác liệt và có những thiếu thốn gian khổ về vật chất và đặc biệt là khó khăn về nghề nghiệp. Quay chiến đấu rất khó anh ạ… Muốn làm được phải có một lòng dũng cảm, tinh thần quyết chiến không sợ hy sinh, ác liệt, gian khổ rồi mà lại còn phải tháo vát linh hoạt và thông minh nữa. Em thì còn non nớt lắm nhất là trong chiến đấu, nhưng em sẽ cố gắng để làm được. Vì em đã quyết định là chưa làm được một phim tốt thì chưa ra, dù có phải hy sinh, gian khổ anh ạ…".--PageBreak--

"Anh sẽ về, em có tin không?"

Đó là câu thơ cuối trong bài thơ Anh sẽ về cháy bỏng niềm tin vào thắng lợi của Vũ Phạm Chuân, từ chiến trường Quảng Đà, tháng 3/1968 gửi cho người yêu tại Hà Nội.

Trong những dòng nhật ký ngắn ngủi mà Vũ Phạm Chuân để lại, có không ít những dòng tình cảm yêu thương, cháy bỏng anh dành cho người yêu của mình là chị Thủy Sóng, diễn viên của Nhà hát giao hưởng, nhạc, vũ kịch Việt Nam.

Ngày 23/1/1968 rời Hà Nội vào chiến trường miền Nam, anh ghi trong nhật ký của mình: "Sáng lên đường, em khóc nhiều. Thương quá! Nhớ. Bao giờ mới gặp lại em? Sóng ơi, anh đi mà vẫn chẳng yên tâm được. Thương em chẳng nghĩ gì đến gian khổ khó khăn đằng trước, chỉ nghĩ đến em".

Ở chiến trường, trong những ngày tháng gian khổ, ác liệt, ngay cả thời khắc hiếm hoi giữa hai trận đánh, Vũ Phạm Chuân vẫn luôn dành tình cảm yêu thương cho người con gái cách xa ngàn dặm. Ngày 16/5/1968, anh viết: "Sáng đi quay xác máy bay. Cái chính là thăm chỗ địch đóng quân. Chúng bỏ lại xác chết. Nhặt được một chứng minh thư và ảnh của một tên Mỹ, có cả ảnh người yêu khá đẹp (R.J. Sierno). Nhớ người yêu quá…".

Song, có lẽ tình cảm lớn nhất, bao trùm nhất mà Vũ Phạm Chuân ghi lại trong cuốn nhật ký của anh là tình cảm đối với đất nước, là tinh thần trách nhiệm cao cả của người lính đối với Tổ quốc và lòng tin mãnh liệt vào ngày chiến thắng của dân tộc, dẫu đôi lúc anh không thể giấu lòng mình. Ngày 15/9/1968, được kết nạp vào Đảng, anh viết: "Sáng nay làm lễ kết nạp mình vào Đảng. Cảm động và thấy nhiệm vụ lại nặng thêm trên hai vai mà hai vai lại gày yếu đi nhiều. Tuy vậy vẫn phải quyết tâm làm cho được. Điều đó không thể khác được".

Anh đã viết những dòng sau đây bằng tiếng Nga trong cuốn nhật ký của mình: "Cuộc sống vẫn cứ trôi qua, đến hôm nay mà mình còn sống. Ở đây giới hạn giữa cái sống và cái chết rất gần. Chúng ta sẽ thắng. Nếu mình không thấy được ngày chiến thắng thì đau buồn quá!".

Thoảng qua giây phút xao lòng đó, trong bài thơ Anh sẽ về gửi cho chị Thủy Sóng, Vũ Phạm Chuân khẳng định với người yêu ngày trở về của mình, không giống như lời hứa hẹn của một người lính trong bài thơ Đợi anh về rất nổi tiếng của nhà thơ Xô viết Xi-mô-nốp mà nhiều người cùng thời với anh đều biết:

Anh sẽ về
Anh sẽ về lại giữa mùa hoa nở
Và cùng em viết tiếp cuộc đời vui
Trên đống tàn tro, cây sẽ đâm chồi
Anh sẽ lại đắm say nghe em hát.
Khói thuốc súng sẽ thay bằng hương thơm ngát
Của hoa và của lúa trổ đòng.
Tiếng em bay cao trên bầu trời trong
Thay cho tiếng bom rơi, đạn réo.
Anh sẽ về
Em có tin không?

Trong bức thư ngày 21/3/1968 từ Quảng Đà gửi về cho mẹ, anh viết những dòng chứa chan tình cảm: "Lương lĩnh được của con mẹ cứ tiêu hết đi, đừng cố làm làm gì, nhỡ ốm thì tội lắm. Xong phim con sẽ về và lúc ấy sẽ kể chuyện nhiều…".

Nhưng rồi Vũ Phạm Chuân đã không trở về như lời anh đã viết cho người yêu của mình trong bài thơ và trong lá thư gửi cho mẹ. Ngày 4/10/1968, anh đã ngã xuống tại một cánh rừng miền Tây Quảng Đà. Gia đình biết tin anh hy sinh, cứ giấu mãi bà mẹ thân sinh và người yêu của anh. Nhưng rồi chính chị Thủy Sóng lại biết tin qua bạn bè của anh, đến báo tin cho mẹ anh biết. Mẹ anh đau buồn, cả tuần không ra khỏi nhà. Con lợn mẹ nuôi chờ anh về để cưới vợ vẫn còn, bà cụ cứ giữ mãi không cho mổ. Ít năm sau, trước khi nhắm mắt, bà cụ chỉ dặn các con cố tìm bằng được mộ người con trai út mà cụ rất mực yêu thương đã hy sinh để đưa về yên nghỉ cạnh cha mẹ

28 năm sau, ngày 15/8/1996, nhờ sự giúp đỡ của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và của đồng chí, đồng đội, gia đình và bạn bè của Vũ Phạm Chuân đã tìm được mộ anh, đưa di hài anh về yên nghỉ trong khu mộ của gia tộc tại quê nhà, bên cạnh mộ ông nội Vũ Phạm Hàm và mộ của cha mẹ anh đúng như lời ước nguyện của mẹ anh trước khi bà cụ mất

.
.
.