Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn: Thánh tướng hiền minh

Thứ Năm, 03/02/2011, 10:30
Tháng 1/1285, Thoát Hoan cầm đầu đội quân chủ lực cùng những tướng soái thạo chinh chiến dẫn đại quân từ Ung Châu, Trung Quốc tiến thẳng vào Lộc Châu, Đại Việt (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn) gần như không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Đúng như dự kiến, đại quân Nguyên - Mông đã dùng chiến tranh chớp nhoáng đánh Đại Việt. Ta sử dụng chiến lược từng bước lui binh, bảo toàn lực lượng, bỏ ngỏ kinh thành cho giặc dữ.

Lần đầu tiên, giặc Nguyên - Mông chiếm kinh thành một nước xa xôi phương Nam vô cùng dễ dàng. Hưng Đạo vương đã tổ chức những trận đánh nhỏ để yên lòng hai vua, tạo kinh nghiệm tác chiến cho các tướng sĩ thuộc quyền cũng là từng bước tạo sự kiêu căng cho quân địch.

Dưới quyền thái tử Thoát Hoan có không ít những tướng lĩnh, những tên Hán gian cáo già bắt đầu nghi ngờ chiến lược lui binh của Trần Quốc Tuấn. Chúng hết sức cảnh giác và thận trọng sau khi chiếm được kinh thành Thăng Long và hạ lệnh cho đại quân của nguyên soái Toa Đô, khi ấy được cử đi đánh Chiêm Thành bằng đường biển đang tác chiến có lợi ở mặt Nam của Đại Việt quay sang  tiến công Nghệ An, định dùng thế gọng kìm để bắt hai vua Trần và Trần Quốc Tuấn tại hành cung Thiên Trường.

Nguyên soái Toa Đô, một tướng soái vào hàng kiệt xuất nhất của đế chế Nguyên - Mông chấp hành mệnh lệnh và hiểu rõ ý đồ chiến lược của thái tử Thoát Hoan. Nếu bắt được các vua Trần, tiêu diệt Trần Quốc Tuấn, tự khắc Chiêm Thành không đánh cũng tan vỡ nên lập tức đem bảy vạn quân thủy bộ phá ải Nghệ An tiến ra Bắc.

Cục diện chiến tranh trở lên hết sức bất lợi cho vương triều Trần. Toa Đô cùng quân tướng phá vỡ ải Nghệ An, hung hăng tiến đánh Thanh Hóa, kẹp các vua Trần và bộ chỉ huy quân sự tối cao của vương triều vào giữa trùng vây. Phân tích rõ thế yếu của quân ta và cục diện chiến tranh bất lợi, các tôn thất dao động khi các mặt trận bị vỡ, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ nếu để Toa Đô và Thoát Hoan hội sư thành công cũng đồng nghĩa với sự diệt vong của Đại Việt và vương triều Trần.

Ông thừa lệnh hai vua, cử Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, người văn võ toàn tài, đặc biệt là tài năng quân sự vào Thanh Hóa, Nghệ An chặn giặc, cầm chân đội quân Toa Đô. Một mặt, các vua Trần và Trần Quốc Tuấn dùng kế hoãn binh, sai sứ đi gặp Thoát Hoan xin cầu hòa và dùng kế dâng công chúa An Tư, em ruột Trần Thánh Tông cho Thoát Hoan với mục đích kéo dài thời gian để tìm đại kế thoát khỏi cục diện thập phần bất lợi.

Mặt khác, Trần Quốc Tuấn điều phần lớn quân sĩ chủ lực rút ra mạn biển, vùng đất chưa xảy ra chiến sự, theo đường biển đi thẳng vào Thanh Hóa, khéo léo hành quân luồn trở lại sau lưng đội quân Toa Đô phá thế chiến lược của chúng.

Cánh quân Toa Đô bị rơi vào thế bùng nhùng của cuộc chiến tranh, điều mà các tướng soái Nguyên - Mông hết sức ngán ngẩm (bọn chúng chỉ quen tác chiến với chủ lực địch bằng quyết chiến theo kiểu sống mái lấy thịt đè người). Đại quân Thoát Hoan thì lần chần có ý chờ vào thắng lợi của nguyên soái Toa Đô trong khi thời tiết ẩm thấp phương Nam mùa hè bắt đầu phát huy tác dụng ảnh hưởng xấu với giặc phương Bắc chỉ quen đánh trận trên bình nguyên.

Thời cơ phản công chiến lược đã tới. Đội quân của Toa Đô sau khi vồ hụt bộ chỉ huy tối cao của vương triều Trần đã bắt đầu rệu rã và thất lợi trong tác chiến.

Tháng 5/1285, Trần Quốc Tuấn điểm binh tướng, chấn chỉnh đội ngũ, hạ mệnh lệnh hành binh tổng phản công.

Đầu tháng 6 năm 1285, Hưng Đạo Vương hạ lệnh tấn công A Lỗ (vùng ngã ba sông Hồng và sông Luộc ngày nay) và đại thắng. Vạn hộ hầu Lưu Thế Anh, chỉ huy các tướng lĩnh của địch ở đây đã phải bỏ đồn tháo chạy.

Thời cơ đuổi giặc đã đến. Hưng Đạo Vương triệu tập các tướng lĩnh bàn kế thu phục lại giang sơn. Tính toán thần diệu và có tính chiến lược của Hưng Đạo Vương là chủ động đánh tan liên quân Toa Đô - Ô Mã Nhi ngay tại đại bản doanh của chúng ở Hàm Tử. 

Chiến thắng Hàm Tử có tính bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông lần thứ hai, tạo thế  và lực mới có lợi cho ta, tạo đà cho một chuỗi các chiến thắng Tây Kết, Chương Dương, Thăng Long… và Thoát Hoan phải rời bỏ kinh thành, ôm mối nhục của kẻ bại trận, hoảng loạn lui binh tạo ra một vết nhơ với đội quân Nguyên - Mông từng bách chiến bách thắng.

Trong lần thứ ba đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông (1287- 1288), một lần nữa, Hưng Đạo Vương lại thể hiện vai trò quân sự kiệt xuất của mình cùng với quân và dân triều Trần đánh gục vĩnh viễn ý chí xâm lược Đại Việt của chúng.

Sau thất bại nhục nhã năm 1285, Nguyên thế tổ Hốt Tất Liệt vô cùng tức giận và gần như ngay lập tức hạ mệnh lệnh cất quân rửa nhục thua trận. Hốt Tất Liệt lập tức bãi bỏ kế hoạch tiến đánh Nhật Bản, dồn lực lượng, đặc biệt là đội hải thuyền hùng mạnh trỏ ngọn cờ xâm lược về phương Nam với dã tâm san bằng Đại Việt, tuyệt diệt triều Trần. Vị hoàng đế hiếu chiến lại giao cho con trai Trấn Nam vương Thoát Hoan tổng chỉ huy 50 vạn hùng binh lập công chuộc tội.

Cuối năm 1287, với ý định lập công chuộc tội, quyết chí rửa nhục thua trận, Trấn Nam vương Thoát Hoan thống xuất 50 vạn quân chia làm ba đường thủy bộ tiến đánh Đại Việt.

Tháng 12 năm 1278 ba cánh quân Nguyên - Mông nhất tề tiến đánh Đại Việt.

Rút kinh nghiệm lần thua trận trước, sau khi phá tan một số ải lũy thuộc Lạng Sơn, Thoát Hoan bất thần hạ mệnh lệnh ào ạt tiến công Vạn Kiếp, đại bản doanh của Hưng Đạo Vương.

Tính toán của Thoát Hoan là một mặt triệt thoái trung tâm chỉ huy chiến tranh của triều Trần, một mặt hội sư thủy bộ tại Vạn Kiếp (hải thuyền của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp cũng đang tiến như vũ bão vào Vạn Kiếp) gây thanh thế, sau đó mới tiến đánh Thăng Long theo hai đường thủy bộ mà mục đích chính là tiêu diệt thủy quân Đại Việt.

Một lần nữa thái tử Trấn Nam vương lại mắc mưu Hưng Đạo Vương.

Biết trước đám tướng lĩnh người Hán sẽ tham mưu cho thái tử Thoát Hoan kế sách đánh chiếm Vạn Kiếp trước khi tiến chiếm Thăng Long, Trần Quốc Tuấn sau vài trận cản giặc đã mau chóng điều quân chủ lực khỏi Vạn Kiếp, rút lui toàn bộ lực lượng một cách an toàn khiến một lần nữa đại quân xâm lược lại vồ hụt đội quân chủ lực triều Trần.

Cánh quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp thống lĩnh, một thứ vũ khí chiến lược của quân đội Nguyên - Mông đánh thẳng vào biển Vạn Ninh (Móng Cái) tiến đánh Ngọc Sơn, tiến đánh cửa biển An Bang (Quảng Yên) hành tiến và liên tiếp đánh thắng các binh thuyền nhỏ của Đại Việt thuận vào dòng Bạch Đằng tiến về Vạn Kiếp. Thủy binh của ta do Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, viên mãnh tướng của vương triều Trần tổ chức trận quyết chiến với Ô Mã Nhi nhưng thất bại.

Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp tưởng như không còn địch thủ và vô cùng hứng khởi khi đã đập tan đội chiến thuyền của Đại Việt do viên tướng thủy quân giỏi vào bậc nhất Trần Khánh Dư mà quên mất đối với các tướng lĩnh triều Trần, bản lĩnh chiến đấu, tâm thức dân tộc và đặc biệt là tinh thần yêu nước tuyệt vời của quần chúng nhân dân luôn là mối họa khôn lường đối với mọi đạo quân xâm lược.

Hí hửng với chiến thắng ban đầu, bỏ mặc đoàn thuyền lương của đại tướng Trương Vân Hổ lặc lè phía sau, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp cấp tốc hành quân đánh thẳng vào Vạn Kiếp, tưởng như sắp sửa bắt được Hưng Đạo Vương để rửa mối nhục thua trận trước kia.

Trần Khánh Dư, sau thất bại choáng váng ban đầu đã tĩnh trí sử dụng đòn hồi mã thương tuyệt diệu trong lịch sử quân sự Việt Nam. Chiến thắng Vân Đồn như một đòn trời giáng đánh sập xương sống của con trăn khổng lồ khiến quân tướng xâm lược Nguyên - Mông tuy nhiều nhưng đã bắt đầu rơi vào trạng thái hoang mang, bất an, mất ăn mất ngủ.

Sau khi chiếm được Vạn Kiếp, sắp đặt quân binh tiến chiếm Thăng Long một cách dễ dàng, Thoát Hoan cùng các tướng lĩnh bàn kế sách tiến thủ. Một mặt Thoát Hoan cho quân thủy bộ ba mặt truy kích các vua Trần mà điển hình là hành động dã man tàn bạo quật phá Chiêu Lăng (lăng mộ vua Trần Thái Tông), đốt phá làng mạc, hãm hiếp, cướp bóc, tàn sát dân lành vô tội.

Không tìm được dấu tích vua Trần và bộ chỉ huy tối cao của Hưng Đạo Vương ở các vùng Long Hưng, Thái Bình; Thiên Trường, Nam Định; thái tử Thoát Hoan quay trở lại Thăng Long bắt đầu lo ngại cho số phận biệt vô âm tín của đoàn thuyền lương - đại tướng Trương Vân Hổ.

Như ngồi trên đống lửa, Trấn Nam Vương quở trách Ô Mã Nhi hành binh vô nguyên tắc và hạ mệnh lệnh phải quay trở lại tìm đón thuyền lương cũng là lúc tin báo trận đại bại của Vạn hộ hầu Trương Vân Hổ đến tai Thoát Hoan. Như con thú điên cuồng, Thoát Hoan biết rằng sinh mạng chính trị của mình từ nay đã thập phần nguy ngập nhưng cũng chỉ biết chôn chặt trong lòng chứ không dám lộ ra để toàn quân rối loạn.

Đứng trước nguy cơ bị tập kích bất cứ lúc nào từ nhiều hướng, đám tướng tá dưới quyền Thoát Hoan đã không có được cơ mưu nào chỉ còn nước bàn lùi: "Ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ,  không có lương thực để ăn mà thuyền lương của Trương Văn Hổ lại không đến, khí trời lại nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống giữ lâu được, sẽ làm hổ thẹn triều đình, nên toàn quân mà về thì hơn".

Như một thứ biện bạch của phường trộm cắp.

Trong tâm trạng đi cũng dở, ở không xong, thái tử điện hạ Thoát Hoan không ngờ ngày tàn của mình lại chóng đến làm vậy. Tâm trạng rối bời vừa sợ hãi vừa điên loạn, tháng 3 năm 1288, Thoát Hoan hạ lệnh triệt phá kinh thành Thăng Long, chia quân làm hai đạo thủy bộ rút về nước. Một mệnh lệnh hành quân ô nhục nhất của đạo quân xâm lược.

Trong các trận thắng khi truy kích giặc rút chạy, tiêu biểu nhất phải kể đến là chiến thắng Bạch Đằng.

Đoán biết trước ý định rút quân của đại quân Thoát Hoan cũng là lúc quyết định tổ chức một trận đại thủy chiến đánh gục ý chí xâm lược Đại Việt của Đế chế Nguyên - Mông, Hưng Đạo Vương quyết định mai phục lớn tại sông Bạch Đằng, chủ trương chôn vùi toàn bộ thủy quân địch.

Đúng như dự đoán của Hưng Đạo Vương, đạo thuỷ quân của Ô Mã Nhi sáng sớm ngày mùng  9/4/1288 dần tiến vào vùng đất chết.

Khi đó những bãi cọc ngầm hàng ngàn chiếc lừng lững ẩn tàng trong lòng nước thẳm sẵn sàng nhổm lên dạy cho lũ xâm lược một bài học nhớ đời.

Những đội chiến thuyền gọn nhẹ, dũng mãnh, thiện chiến và  đặc biệt là lòng căm thù giặc sâu sắc của tướng lĩnh, của nhân dân Đại Việt đã ở  lúc đỉnh điểm đang chờ đón chúng.

Sự chín muồi, kinh nghiệm dày dặn và đặc biệt là tư duy chiến lược sâu sa đánh một trận để trăm nghìn năm sau phương Bắc nhắc đến Bạch Đằng giang là tim đập chân run đã được những bộ óc tối cao của vương triều Trần đặt lên bàn cờ chiến trận.

Trận hải chiến lớn nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm đã diễn ra và sự đại thắng đương nhiên thuộc về chính nghĩa.

Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, vị thánh tướng hiền minh của dân tộc, tầm vóc tài năng quân sự kiệt xuất vượt ra khỏi ranh giới Đại Việt, là một trong mười tướng lĩnh tài giỏi nhất mọi thời đại được thế giới tôn vinh

Phùng Văn Khai
.
.
.