HLV Nguyễn Văn Vinh: “Lòng cuồng điên vì nhớ”

Thứ Ba, 20/03/2012, 15:45
Một ngày mùa thu năm 2009, sau khi tiễn đưa cố danh thủ Thể Công Phạm Tất Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng, chiếc xe ô tô 4 chỗ do cựu cầu thủ Thể Công Vũ Mạnh Hải làm tài xế chạy chầm chậm từ Công viên Vĩnh Hằng (Sơn Tây) về Hà Nội. Giữa đường, ông Hải bật một đĩa nhạc, giọng hát Thu Phương bất chợt vang lên: “Hà Nội ơi, phố phường rải ánh trăng mơ/ Liễu mềm nhủ gió ngây thơ/ Thấu chăng lòng khách bơ vơ?…”. Câu hát chạm vào nơi sâu thẳm cõi lòng của một ông lão 71 tuổi ngồi trên xe...

Câu hát làm ông sống lại thời tuổi thơ Hà Nội, những ngày trẻ trai Hà Nội, và cả một quãng đời ngậm ngùi xa Hà Nội. Ông òa khóc rồi nghẹn ngào nói với người lái xe: “Từ giờ cho tới khi chết, chắc chắn tôi không thể gắn bó từng ngày, từng giờ với Hà Nội như hồi mới lớn ngày xưa nữa…”.

Ngày xưa ấy là ngày ông còn là một cậu học sinh Trường Bưởi – Chu Văn An. Ngày mà gia đình nhỏ của ông sống quây quần bên nhau tại một căn gác ở số 15 Hạ Hồi – con phố yên ả nằm vuông góc với phố Quang Trung có tiếng tàu điện leng keng một thời trong ký ức, nằm song song với phố Trần Quốc Toản thâm trầm, phảng phất hương hoa sữa vắt sang từ đường Nguyễn Du, và nằm chênh chếch so với hồ Thiền Quang – cái hồ giống như một giọt nước mắt của ông trời bất ngờ rớt xuống lòng thành phố.

Có lẽ, một phần do tính cách và một phần do “đặc điểm cư ngụ” ấy mà ngay từ thời trai trẻ, Nguyễn Văn Vinh đã nổi tiếng là một người lãng mạn. Thế nên khi cậu thanh niên Nguyễn Văn Vinh nhập ngũ rồi bất ngờ rẽ sang nghề đá bóng – cái nghề chẳng lãng mạn chút nào, thì ai cũng nghĩ cậu đã chọn nhầm nghề. Nhưng nếu biết rằng Thể Công của cậu hồi ấy luôn theo đuổi triết lý “đá đẹp”, bản thân cậu cũng luôn hướng đến triết lý “bóng đá cống hiến”, và sau này, khi trở thành HLV thì HLV Nguyễn Văn Vinh đã có lúc vừa nhắm mắt nghe nhạc, vừa lên đấu pháp thì đủ hiểu chất lãng mạn bóng đá của nhân vật này lớn tới đâu.

Nói tới chuyện vừa nghe nhạc, vừa lên đấu pháp, ông Vinh tâm sự: “Không hiểu sao sự chuyển đổi tiết tấu trong âm nhạc, từ cung nọ sang cung kia, từ gam nọ sang gam kia luôn làm tôi liên tưởng đến sự chuyển đổi từ phòng ngự sang tấn công trên sân cỏ. Thế nên âm nhạc gợi mở cho tôi rất nhiều ý tưởng về đấu pháp”. Nói tới đây, ông già 71 tuổi chợt nhớ: “Mà thời thanh niên, tôi cũng đánh trống, chơi ghita như một nghệ sĩ thực thụ đấy nhé”.

Nghe cái giọng khàn khàn say sưa khi nói về thời thanh niên của ông là đủ hiểu ông nhớ cái thời ấy, và nhớ về Hà Nội của cái thời xa xôi ấy da diết nhường nào. Có phải vì nhớ thế mà khi đột xuất trở về Hà Nội để đưa tang danh thủ Phạm Tất Thắng – người thầy cũ của mình, rồi lại bất giác nghe những câu hát mượt mà về Hà Nội mà một người từng trải, giàu bản lĩnh như ông mới đột nhiên òa khóc? Có phải vì nhớ thế, và yêu thế mà năm 1979, khi ông Vinh “tàu” (người ta đặt biệt hiệu cho ông như vậy bởi ông vốn là người Việt gốc Hoa) buộc phải xa Hà Nội vào Nam lập nghiệp thì ông đã ôm trong lòng một nỗi đau thầm kín, khó chia sẻ với ai?

Chỉ đến mãi sau này, khi tư tưởng sống cởi mở hơn và cái nhìn của xã hội đỡ khắt khe hơn thì ông mới thổ lộ nỗi đau của mình: “Khi sống ở Hà Nội, có những lúc tôi sống trong tâm thế của một người Việt gốc Hoa. Sau đó, khi vào Sài Gòn lập nghiệp thì tôi lại sống với tâm trạng của một anh Bắc Kỳ xa xứ. Có nghĩa là ở đâu tôi cũng thấy sự sống của mình chơi vơi, bấp bênh, không ổn định. Nó khiến tôi có lúc tự ôm đầu mà hỏi: “Rốt cuộc thì ta là ai đây? Và ta sẽ phải sống sao đây?”.

Giữa thung lũng của cái cảm giác chơi vơi, lạc loài, ông Vinh khi ấy bám vào những lời dạy của mẹ như bám vào một cây thánh giá của niềm tin. Những lời dạy về việc phải sống tử tế, sống trung thực và tin tưởng vào sự chiến thắng cuối cùng của lương tâm đã cho ông sức mạnh để đối đầu với cái thực tại nhớp nhúa của một làng bóng đầy rẫy mưu ma chước quỉ - cái làng bóng mà không ai không biết, không hiểu một điều sơ đẳng rằng: “Tất cả đều ăn gian, thằng nào không ăn gian, thằng ấy dại”. Ông Vinh biết điều đó, nhưng cầm quân bất cứ đội bóng nào ông cũng bảo: “Người ta ăn gian mặc người ta, mình hãy đá bóng tử tế, trung thực nhé”. Hậu quả là ông cầm đội nào thì đội ấy y như rằng xuống hạng. Nó khiến cho người ta thậm chí đã quên đi cái biệt hiệu Vinh “tàu” để gọi bằng một biệt hiểu mới: Vinh “đen”.

Nhưng đấy vẫn chưa phải là tất cả nỗi đau của một con người dám một mình chống lại “toàn thế giới”. Nỗi đau còn trải dài, còn nhân lên khi chính những học trò của ông vì không thể  sống khác người như ông nên đã có lúc “chơi” ông đau điếng. Đấy là lúc mà trước một trận đấu, khi ông vừa họp đấu pháp xong thì một cầu thủ đàn anh trong đội đột nhiên đề nghị: “Thầy cứ đi trước đi, em muốn trao đổi, lên giây cót tinh thần với anh em một chút”. Thế là ông đi trước, để rồi khi trận đấu diễn ra, và khi gần một nửa đội bóng đã chơi bất thường thì ông mới được thông báo rằng cái lúc mà ông hồn nhiên “đi trước” theo lời đề nghị của học trò, lại chính là lúc các học trò ông thỏa thuận với nhau về việc “phải thua đối phương thế nào cho đẹp”.

Ông Vinh kể lại rằng hồi dẫn đội Công nghiệp Thực phẩm, trước việc các cầu thủ thi đấu bất thường một cách có hệ thống, ông đã quyết định đứng trước cả đội và nói thẳng: “Tất cả hãy nhìn vào mắt tôi để nói xem, trận đấu này ai bán, ai không bán? Tôi hứa chỉ hỏi để biết, chứ không truy cứu lỗi lầm ai cả”. Ông chỉ vừa dứt lời thì cả đội đứng lên, thừa nhận việc tất cả đều bán độ. Nghe xong, ông trở về phòng mà không ngủ được.

Cả đêm hôm ấy ông trăn trở với duy nhất một câu hỏi: Trong cuộc sống, mình đã mang tâm thế lạc loài, trong bóng đá mình cũng là một kẻ lạc loài nữa chẳng? Câu hỏi còn giày vò, đay nghiến ông nhiều năm sau đó. Và đó chính là lý do khiến ông quyết định bỏ bóng đá để sống một cuộc sống giản dị cùng vợ con ở một con hẻm nhỏ tại TP HCM.

Cuộc sống ẩn dật ấy sẽ diễn ra với ông cho đến tận cuối đời nếu một buổi tối năm 2002, Giám đốc Sở TDTT Gia Lai khi ấy không bất ngờ điện thoại tới nhà ông, rủ lên Gia Lai làm bóng đá. Ông Vinh bảo vì quá chán và quá ngán bóng đá nên ông không muốn nhận lời. Nhưng đến khi gặp ông bầu Đoàn Nguyên Đức, và nghe ông Đức cam kết về một thứ bóng đá sạch sẽ, thuần khiết thì những khát vọng bóng đá trong sâu thẳm cõi lòng ông đột nhiên trở dậy. Và thế là ông quyết định chung tay cùng bầu Đức dựng lên một Hoàng Anh Gia Lai  rừng rực lửa tấn công, một HAGL với khát vọng đá sạch, đá đẹp, một HAGL bách chiến bách thắng vào đầu những năm 2000.

Một lần, tôi hỏi ông Vinh: “Thất bại toàn diện trong thời bóng đá bao cấp nhưng lại thành công mỹ mãn với bóng đá doanh nghiệp giai đoạn đầu tiên, liệu ông có rút ra được những chiêm nghiệm, những bài học gì không?”. Ông trả lời: “Khi đã thả người ta vào môi trường tử tế, và khi cho người ta được bay bổng với những ý tưởng tích cực của mình thì người ta có thể giải phóng năng lượng ở mức tối đa. Và khi ấy người ta sẽ làm được rất nhiều điều tốt cho xã hội”.

Phải nói khách quan rằng gần chục năm gắn bó với HAGL, ông Vinh đã đặt dấu ấn lên gần như mọi thành công của đội bóng này. Nhưng HAGL thời của ông cũng từng để lại những trận đấu khó hiểu, mà điển hình nhất chính là lần sát thủ Kiatisak đá hỏng quả 11m trên sân Lạch Tray năm 2004, gián tiếp giúp chủ nhà Hải Phòng trụ hạng. Tôi đã thẳng thắn hỏi ông Vinh cả về những trường hợp thế này – những trường hợp mà tôi tin chắc rằng ông không can dự, nhưng có thể là ông hiểu hết và thấy hết.

Cũng rất thẳng thắn, ông Vinh trả lời tôi: “Ở đời này, tìm một cái gì đó tuyệt đối gần như không thể!”. Tôi hiểu và đồng cảm với câu trả lời của ông. Và tôi cũng hiểu rằng trong cuộc đời này “sạch sẽ một cách tương đối” (chứ không phải tuyệt đối) cũng đã là đáng quý lắm rồi, bởi một sự “sạch sẽ tương đối” là điều mà đâu phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng chạm tới.

Năm 2009, ông Vinh quyết định chia tay HAGL, chia tay bóng đá. Mấy hôm trước, điện thoải hỏi ông: “Cuộc sống của ông bây giờ ổn chứ?”, thấy ông cười khà khà: “Ổn mà, ổn từ vật chất đến cả tinh thần nữa”. Bây giờ, ở tuổi 71, ông Vinh có sở thích là mỗi sáng ngồi café nghe nhạc, và có một bản nhạc mà ông bảo mình rất thích, nhưng tôi thì nghĩ ông vừa thích mà lại vừa sờ sợ mỗi khi chạm phải giai điệu và ca từ của nó. Đấy là bản Hoài cảm của Cung Tiến với những câu mượt mà, nhoi nhói con tim:

Lòng cuồng điên vì nhớ. Ôi đâu người đâu ân tình cũ?Chờ hoài nhau trong mơ. Nhưng có bao giờ, thấy nhau lần nữa?

Ông Vinh ơi, tôi biết, luôn có một Hà Nội xa xưa, khắc khoải trong nỗi nhớ của ông. Và tôi cũng biết, có một lý tưởng, một khát vọng chưa thành (mà có lẽ đời này, kiếp này sẽ khó thành) luôn khắc khoải ở nơi thăm thẳm một cõi sống trong ông.

Ông Vinh ơi, LÒNG CUỒNG ĐIÊN VÌ NHỚ…!

Phan Đăng
.
.
.