Danh thần Lý Trần Quán: Trọn một niềm tin

Chủ Nhật, 21/10/2012, 11:15
Ở đời, công thành danh toại vẹn cả đôi đằng là nhất rồi. Tuy nhiên, đấy chỉ là những trường hợp hi hữu. Thường là hoặc thành công, hoặc thành nhân. Trong con mắt của ai đấy, Lý Trần Quán (1735-1786) có thể hiện lên như một hủ nho gàn dở, chấp nhận cái chết vì “phù suy” chứ không chịu thay đổi niềm tin cũ để đi “phù thịnh”. Thế nhưng, dù không thành công cũng chính vì thế, ông đã thành nhân, được người đời kính trọng ngay trong thời của mình và cả sau này nữa.

Trung nghĩa làm đầu

Trong sách Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái, Lý Trần Quán được nhắc tới ở thời điểm Nguyễn Huệ với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” mang quân ra đánh thành Thăng Long năm 1786. Bị dồn vào thế cùng đường, chúa Trịnh là Đoan Nam vương Trịnh Khải  phải “bỏ của chạy lấy người” tới  vùng Hạ Lôi, Yên Lãng (địa phận huyện Mê Linh, Hà Nội ngày nay). Đi theo Trịnh Khải chỉ dăm bảy viên hoạn quan trẻ cùng Nguyễn Noãn (tức Ba Đóm) vốn là con trai của một gia thần trong phủ chúa.

Thân cô thế cô, Trịnh Khải cho Nguyễn Noãn đi tìm Lý Trần Quán, viên Thiêm sai giữa công việc Lại phiên, trước đây vâng đem tờ hịch đi chiêu mộ nghĩa binh và hiện đang tá túc tại khu vực đó nhờ được người học trò cũ là viên tuần huyện Nguyễn Trang che chở. Khi hay tin, Lý Trần Quán đã nói thác với Trang rằng, có quan Tham tụng Bùi Huy Bích tới tránh loạn và nhờ Trang hộ tống đi ra khỏi địa phương.

Tuy nhiên, khi Lý Trần Quán trực tiếp diện kiến Trịnh Khải, ông đã không giấu được sự cung kính làm lộ ra hành trạng thật của chúa. Và điều này không lọt qua được mắt của Nguyễn Trang, vốn trưởng thành lên từ vai trò một tướng cướp. Chính vì thế nên sau khi Lý Trần Quán ra về và Nguyễn Trang mang theo năm mươi thủ hạ đi hộ vệ cho chúa thì chính y đã giở mặt. Sách Hoàng Lê nhất thống chí kể:

“Lúc qua một ngôi nhà mà Quán đã từng ở, Trang giữ chúa trong một căn phòng bỏ không và hỏi:

- Ông có phải là Đoan Nam vương thì cứ nói thực với tôi. Nếu không rồi xảy ra việc gì ông đừng có trách.

Minh họa:  Lê Trí Dũng.

Chúa mới đầu còn định giấu giếm, bèn đáp:

- Sao anh lại đoán xằng như vậy? Ta chỉ là quan tham tụng Bùi Huy Bích mà thôi!

Trang nói:

- Ông chớ nói dối người ta. Cái bộ điệu che đậy của chúa tôi nhà ông lúc nãy tôi đã thấy cả rồi, còn che mắt ai được nữa? Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường, ông cũng không thể tránh khỏi, đừng có làm gì nữa cho thêm nhọc mình!

Rồi Trang đưa chúa về nhà. Chúa giận lắm, đổi sắc mặt mà nói:

- Vua chúa phải có mệnh trời. Chính thật Đại nguyên soái Đoan Nam vương là tao đây! Nếu có chết về tay người trong nước thì cũng là mệnh trời. Tha hồ cho mày làm gì thì làm!

Trang bèn sai người đi báo tin cho quân Tây Sơn. Hết thảy những kẻ đi theo chúa đều bị bắt giữ…”.

Khi Lý Trần Quán nghe tin Nguyễn Trang trở mặt phản bội, ông đã tất tả đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói:

- Làm lầm chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả!.

Và ông cũng đã trách thằng học trò bất nghĩa:

- Chúa là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao anh nỡ làm như thế?.

Nguyễn Trang với tâm lý tiểu nhân đã cãi lại ông thầy cũ:

- Quan lớn không bảo tôi trước, khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu chúa trốn thoát ở tay tôi, rồi nữa quân Nam đến hỏi tội tôi, liệu quan lớn có thể biện bạch hộ được không? Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan lớn làm cho lầm lỡ đâu!

Rồi tiếp đó, Trang bức Lý Trần Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về Thăng Long. Sách Hoàng Lê Nhất thống chí kể tiếp:

“Quán tới lạy chúa, vừa khóc vừa kêu gào rằng:

- Ối trời ơi! Tôi giết chúa tôi rồi, trời có hay chăng?

Chúa an ủi:

- Tấm lòng trung thành của khanh, “cô” đã biết rồi đừng nên tự oán mình như thế!

Quán muốn nèo chúa ở lại chút nữa, nhưng chưa kịp nói thì chúa đã bị Trang đẩy đi rồi…”.

Trịnh Khải trên đường đi, nghĩ mình “hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” nên đã tìm cách tự sát ngày 27-6 năm Bính Ngọ (1786). Và Nguyễn Trang chỉ đưa được xác của chúa về Thăng Long để quân Tây Sơn phơi ra ngoài cửa Tuyên Vũ để cho thiên hạ cùng biết. Sau đó, quân Tây Sơn cũng khâm liệm chúa đúng theo lễ vua chúa, rồi dùng kiệu rồng đưa ra chôn ở lăng Cung quốc công (nơi chôn Trịnh Cán, người em cùng cha khác mẹ với Trịnh Khải)…

Trong khi đó ở làng Hạ Lôi, cũng theo Hoàng Lê Nhất thống chí, sau lúc  bị bắt buộc phải từ biệt chúa, Lý Trần Quán  quay về nhà trọ và nói với chủ nhà rằng:

- Bề tôi mà làm lầm vua, tội thật đáng chết! Nếu ta không chết, không lấy gì tỏ được lòng này với trời đất. Vậy hãy sắm cho ta một cỗ quan tài, mười vuông vải trắng, để ta làm theo cái chí của ta.

Chủ nhà hết sức khuyên giải, nhưng Lý Trần Quán vẫn không nghe, nói rằng:

- Ta đã muốn chết, tự khắc còn có những cách khác, nhà ngươi không thể ngăn nổi đâu. Nếu quả là yêu mến ta, thì cứ để mặc ta làm gì thì làm.

Thời gian càng trôi qua thì Lý Trần Quán càng tỏ ra phẫn uất, bồn chồn, và càng quyết liệt bộc lộ ý muốn quyên sinh. Chủ nhà ngăn ông chẳng được, biết lòng trung của ông không thể lay chuyển, đành phải sắm sửa đầy đủ các thứ theo như lời ông đã bảo.

Lý Trần Quán sai đào huyệt ở ngay vườn sau nơi nhà mình ở đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại lấy vải trắng xé ra làm một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó, đội mũ mặc áo chỉnh tề, hướng về phía nam lạy hai lạy. Lạy xong, lại bỏ mũ, lấy khăn trắng chít lên đầu, lấy dải lưng trắng thắt ngang lưng; rồi nằm vào trong quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại rồi cho vùi đất lấp đi…

Nguyễn Trang đã được quân Tây Sơn phong làm Tráng nghĩa hầu và cho thêm chức trấn thủ Sơn Tây. Theo Trịnh thị thế gia, trong việc truy bắt Trịnh Tông thì ngoài Nguyễn Trang ra còn có Nguyễn Noãn cũng tham dự vào việc bắt Tông. Nhưng lúc Noãn đòi thưởng công thì thủ lĩnh quân Tây Sơn Nguyễn Huệ cho y là kẻ bất nghĩa và sai đem chém ngay…

Không thờ hai chúa

Những tư liệu còn lại cho tới thời nay cho thấy, Lý Trần Quán sinh năm 1734 trong một gia đình rất trọng chữ nghĩa ở thôn Kim Hoàng, xã Vân Canh (nay là xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội). Cha ông gốc họ Đặng, tên là Trần Diễm (có sách ghi là Diệm), sinh năm 1705, họ xa của Đặng Công Toản, đệ tam giáp đồng tiến sĩ năm 1520, thời nhà Hậu Lê…

Mặc dù nhà nghèo nhưng Đặng Trần Diễm với bản tính thông minh dĩnh ngộ nên vẫn đỗ cử nhân năm 1730 rồi ra làm quan. Năng lực cũng như đạo đức cá nhân đã giúp cho Đặng Trần Diễm được tin dùng  và thậm chí còn trở thành Đông các đại học sĩ, chức danh vốn chỉ dành riêng cho những người có học vị tiến sĩ, có tài cao, có công trạng lớn… Khi đã tới tuổi tam thập, Đặng Trần Diễm vẫn chưa có con nối dõi nên đã đến đền Chèm cầu xin Lý Ông Trọng (nhân vật huyền thoại sống ở thế kỉ thứ III trước CN, quê tại đó và đã lập nhiều kỳ tích nên được suy tôn là Đức Thánh Chèm) độ trì cho có con nối dõi.

Về sau, những người vợ của ông quả thực đã sinh được 3 con trai, nên “uống nước nhớ nguồn”, Đặng Trần Diễm đã đổi cho các con mang họ Lý, lập ra một chi họ Lý Trần gốc họ Đặng. Lý Trần Quán là anh cả, tiếp theo là người em cùng mẹ Lý Trần Dự (1740-1777). Người con út là Lý Trần Thản (1746-1810) do người vợ thứ của Đặng Trần Diễm sinh ra. Người cha mẫu mực đã rất quan tâm tới việc dạy dỗ con cái nên cả ba lớn lên đều học rất giỏi và đều đỗ tiến sĩ. Lý Trần Quán đỗ đồng tiến sĩ năm Bính Tuất (1766). Khi đó, ông ở tuổi 31. Lý Trần Dự và Lý Trần Thản cùng “huynh đệ đăng khoa”, đỗ tiến sĩ năm Kỷ Sửu (1769). Người con út trong gia đình về sau đã trở thành con rể cưng của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784)…

Lý Trần Quán ngay từ nhỏ đã nổi tiếng là người hiền hậu, giản dị và hiếu nghĩa. Cũng theo sách Hoàng Lê nhất thống chí, khi mẹ ông qua đời, ông đã ở nhà mồ luôn ba năm liền; miệng không ăn thịt cá, thân thể gầy rạc, chỉ còn da bọc xương. Ông thường tự nói: “Ta nay đã bốn chục tuổi đầu, nhưng những việc đã làm trong quãng đời vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với đạo làm người”… Ngày 29/6, năm Bính Ngọ (1786), khi đã nằm vào quan tài đặt trong huyệt, lúc ván đã đóng vào rồi, ông vẫn nói vọng ra:

- Hãy còn thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đã.

Vị chủ nhà nơi ông ở, nghe thấy thế lại mở nắp quan tài ra và Lý Trần Quán đã liền đọc hai câu rằng:

Tam niên chi hiếu dĩ hoàn,
Thập phần chi trung vị tận.

(nghĩa là: Đạo hiếu ba năm đã trọn,/ Chữ trung mười phần chưa xong).

Rồi ông bảo với chủ nhà:

- Phiền ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta…

Cho tới phút cuối cùng trên cõi thế, Lý Trần Quán vẫn trung trinh một nỗi niềm “tôi ngay không thờ hai chúa”. Sách Hoàng Lê nhất thống chí chép rằng: “Sau khi Quán mất, thiên hạ ai cũng thương chúa và kính trọng Quán là bậc nghĩa khí”. Ông cũng đã được người đời sau xưng tụng tiết nghĩa, truy phong làm Phúc thần

Đặng Đình Nguyên
.
.
.