Đặng Nhật Minh: Phim là chuyện người, chuyện nước

Thứ Bảy, 25/11/2006, 10:00

Là đứa con mồ côi cả cha lẫn mẹ từ khi còn rất trẻ, nên nỗi đau của con người, nỗi đau của đất nước luôn làm trái tim đạo diễn Đặng Nhật Minh nhức nhối. Có lẽ những bộ phim của anh đã ra đời từ đấy.

Năm nay Nghệ sĩ nhân dân - đạo diễn điện ảnh Đặng Nhật Minh là một trong số năm người được đề nghị Hội đồng giải thưởng quốc gia về Văn học nghệ thuật tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh với chùm bốn bộ phim truyện nổi tiếng: “Thị xã trong tầm tay”, “Bao giờ cho đến tháng Mười”, “Hà Nội mùa đông 46”, “Mùa ổi”. Mỗi chuyện phim của anh đều đau đáu chuyện đời, chuyện nước.

Nhưng để có những thước phim để đời, anh cũng phải 30 năm vất vả, lăn lộn để vươn thoát khỏi cơ chế bao cấp kìm hãm, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng Đặng Nhật Minh là người kể sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh. Anh là một đạo diễn điện ảnh hiếm hoi của Việt Nam có chính kiến mạnh, có nhiều bộ phim nổi tiếng được giới điện ảnh thế giới nể trọng.

Đặng Nhật Minh sinh ra ở An Cựu, Huế, trong một gia đình không có mối liên hệ gì với nghệ thuật, nhất là với nghệ thuật điện ảnh. Anh là con của Giáo sư Đặng Văn Ngữ và bà Tôn Nữ Thị Cung, một phụ nữ hoàng phái ở Huế. Năm 1950, bà Cung từ Huế mang ba con nhỏ lặn lội đường rừng gần ngàn cây số ra chiến khu Việt Bắc. Sống với chồng con chưa được bốn năm thì bà đột ngột qua đời, ở thành phố Huế bây giờ, hai bên bờ sông An Cựu có hai con đường song song mang tên một nhà khoa học và một nhà lý luận nổi tiếng của cách mạn: Đặng Văn Ngữ và Hải Triều.

Hàng ngày bà con Huế đi chợ An Cựu đều đi trên con đường mang tên nhà khoa học đã chiết xuất ra nước cất péniciillne để chữa vết thương cho nhân dân và bộ đội trong kháng chiến chống Pháp. Giáo sư bảy năm tu nghiệp nghiên cứu về nấm tại Nhật, nghe lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, đã quyết định về nước tham gia kháng chiến năm 1946. Trong chống Mỹ, ông vào chiến trường nghiên cứu một thứ vắcxin miễn dịch sốt rét để chữa cho bộ đội và lặng lẽ nằm lại dưới mái rừng Trường Sơn suốt 20 năm. Tình cờ một người tiều phu phát hiện được mộ ông... trong gói vải dù bọc một ít di hài ông chỉ có một tấm biển nhôm khắc vỏn vẹn mấy chữ: “Đặng Văn Ngữ.  1/4/l967”.

Ông được đưa về nghĩa trang liệt sĩ Phong Mỹ, Phong Điền. Mãi năm 1992, mới được Đặng Nhật Minh cùng gia đình đưa về nghĩa trang họ Đặng trên núi Ngự Bình. Là đứa con mồ côi cả cha lẫn mẹ từ khi còn rất trẻ, nên nỗi đau của con người, nỗi đau của đất nước luôn làm trái tim anh nhức nhối. Có lẽ những bộ phim của anh đã ra đời từ đấy. Vâng, phim là chuyện đời chuyện nước.

Đặng Nhật Minh cho biết, lúc trẻ làm phiên dịch tiếng Nga 5 năm. Anh không hề nghĩ mình sẽ trở thành đạo diễn điện ảnh. Anh không được đào tạo ở trường điện ảnh chính quy, chỉ hai lần đi “tập huấn’’ điện ảnh, tức đi “cưỡi ngựa xem hoa” ở Bungari và Pháp.

Không qua trường lớp, lại làm đạo diễn trong hoàn cảnh bao cấp, ai làm phim gì đều do tổ chức phân công, nhưng Đặng Nhật Minh đã lặng lẽ chọn cho mình lối đi riêng và anh đã thành công với nhiều bộ phim cuốn hút người xem. Khác với các đạo diễn khác, anh tự viết lấy kịch bản theo cảm hứng từ các truyện ngắn của mình in trên báo Văn nghệ.

Mỗi bộ phim của Đặng Nhật Minh là một bài thơ gắn với những nỗi buồn đau của quê hương, gia đình. Phim của anh là tiếng gọi của trái tim vượt qua những giáo lý cực đoan, những thành kiến hẹp hòi nghi kị của một thời, để con người đến với con người, đến với thế giới tâm linh thăm thẳm. Xem phim anh, người xem bao giờ cũng phải suy nghĩ đến một lẽ sống đẹp hơn, nhân bản hơn. Muốn có được những “vấn đề’’ ẩn sau những thước phim, đạo diễn phải là người có cá tính, có bản lĩnh. Nhưng anh ít khi toại nguyện với những bộ phim của mình, vì nhiều lúc không thể vượt qua những ngáng trở của khách quan.

Phim tài liệu Nguyễn Trãi (lời bình của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường) là thành công đầu tiên của Đặng Nhật Minh (Huy chương Bạc Liên hoan phim Việt Nam 1983). Trải qua 600 năm, hình tượng Nguyễn Trãi tài hoa, đau đáu chuyện đất nước được nhà làm phim dựng lại từ những chi tiết rất xúc động. Đặng Nhật Minh đã kiên quyết bảo vệ những chi tiết đó của mình. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, trong kịch bản phim, đoạn quay ở ải Chi Lăng cần có con ngựa băng qua một cánh đồng lầy. Nhưng khó kiếm ngựa nên chủ nhiệm phim bắt phải thay con ngựa bằng con bò, Đặng Nhật Minh kiên quyết không chịu.... Sau này xem phim, tôi thấy Đặng Nhật Minh đã có lý. Hình ảnh con ngựa khó nhọc băng qua cánh đồng lầy cùng tiếng ngựa hý thảm thiết đã nói lên rất nhiều.

Phim truyện “Thị xã trong tầm tay” là phim hay, giàu chất điện ảnh (Huy chương Vàng tại Liên hoan phim Việt Nam 1983). Câu chuyện kể về một mối tình éo le của đôi trai gái ở thị xã Lạng Sơn sau chiến tranh biên giới. Chủ nghĩa lý lịch một thời đã làm tan vỡ bao nhiêu mối tình trai trẻ. Điều đó được thể hiện rất xúc động và sâu sắc trong phim “Thị xã trong tầm tay’’. Bộ phim bị một số người chê bai cho là “phạm húy’’ vì nói xấu công tác tổ chức. Vì trong kịch bản có một cảnh cán bộ tổ chức chất vấn nhân vật chính về mối quan hệ của anh ta với cô người yêu có lý lịch không rõ ràng, nhưng lại được khán giả đón nhận nồng nhiệt.--PageBreak--

Phim truyện nổi tiếng “Bao giờ cho đến tháng mười’’ lại khởi hứng từ một đám tang thật ở Quế Võ, Hà Bắc mà đạo diễn ngồi trong quán trú mưa chứng kiến. Một đoàn người đi lầm lũi trong mưa...Theo sau chiếc kiệu có bốn người khiêng là một phụ nữ trẻ quấn khăn trắng, dắt một đứa con trai nhỏ. Bà con trong quán cho biết chồng chị là bộ đội đi B, hy sinh đã lâu, nhưng bây giờ người ta mới báo tin cho gia đình biết và làm lễ rước linh hồn người chiến sĩ về nghĩa trang làng. Còn anh nằm ở đâu trong chiến trường miền Nam đến bây giờ không ai biết.

Người phụ nữ chít khăn tang đi dưới chiều mưa hôm ấy chính là chị Duyên nhân vật chính của phim sau này. Trong phim, tác giả đã tạo ra trường đoạn chợ âm dương rất tài hoa để người âm kẻ dương gặp nhau, mô tả nỗi đau, mất mát trong chiến tranh của mỗi gia đình Việt Nam, rất phù hợp với tập quán tâm linh dân tộc. Phim hay và xúc động thế, nhưng phải qua 13 lần duyệt mới được phát hành. Khi xuất hiện, lập tức bộ phim gây được tiếng vang lớn ở Pháp, Mỹ và màn ảnh của nhiều nước trên thế giới. Bộ phim đã được giải đặc biệt của Ban giáo khảo Liên hoan phim tại Honolulu, Hawaii. Có thể nói đây là bộ phim đầu tiên của điện ảnh Việt Nam đi ra với thế giới từ sau năm 1975.

Phim truyện “Mùa ổi” lại là câu chuyện về những người tiểu tư sản, trí thức Hà Nội bị gạt ra rìa cuộc sống sau 1954. Đạo diễn lấy ngay những kỷ niệm về gia đình bố vợ của mình ở ngôi nhà 43 Hàng Chuối để viết kịch bản, nên rất xúc động, được người xem trong và ngoài nước nồng nhiệt đón nhận.

Phim truyện “Hà Nội mùa đông 46’’ là bộ phim mang tính luận đề cao. Đặng Nhật Minh cho biết, qua nhiều chuyến đi ra nước ngoài, anh phát hiện ra rằng, người nước ngoài tuy phục dân ta đánh thắng hai đế quốc to, nhưng họ lại cho rằng người Việt Nam hiếu chiến. Vì thế Đặng Nhật Minh đã chọn Hà Nội mùa đông 46, là lúc mà người Việt Nam không muốn có chiến tranh, tìm mọi cách để giành độc lập bằng thương lượng.

Bộ phim đề tài lịch sử liên quan rất nhiều đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chèo lái con thuyền cách mạng trong những giờ phút nguy nan nhất. Phim thể hiện quan điểm người Việt Nam không muốn có chiến tranh. Với phim “Hà Nội mùa đông 46”, Đặng Nhật Minh đích thị là một “con người chính trị” theo cách riêng của mình. Bộ phim đã giành được sự đồng cảm lớn của bè bạn quốc tế.

Sau khi xem “Hà Nội mùa đông 46” tại Liên hoan phim,  một nhà báo Mỹ đã viết bài đăng trên tờ  International Herald Tribune gọi Đặng Nhật Minh là “Nhà ngoại giao con thoi của điện ảnh Việt Nam”. Năm 1987, Đặng Nhật Minh được Mỹ mời sang Honolulu để dự Liên hoan phim Hawaii. Tại hội thảo này, anh đã phát biểu rằng, các phim người Mỹ làm về chiến tranh Việt Nam đều giống nhau một điểm: Những lính Mỹ là những con người,... còn Việt cộng trong các phim Mỹ đều giống ăngca của bè lũ Pol Pot... Phát biểu của Đặng Nhật Minh và hình ảnh chị Duyên trong phim “Bao giờ cho đến tháng mười” đã làm cho Hội thảo hiểu đúng hơn về Việt nam, kể cả những đạo diễn, diễn viên người Việt hải ngoại.

Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã được báo Nihon Keizai Shimbun của Nhật Bản trao giải thưởng về văn hóa năm 1999. Đây là giải thưởng trao hàng năm cho những nhân vật châu Á nổi bật. Và gần đây, tháng 8/2005, anh được Liên hoan phim Gwangju (Hàn Quốc) trao giải “Thành tựu suốt đời” cho toàn bộ sáng tác của mình. Anh đã đựơc tặng nhiều giải thưởng quốc tế về phim, được mời về dự và làm giám khảo nhiều liên hoan  phim ở nhiều nước.

Nhưng tôi nghĩ, giải thưởng cao nhất là phim Đặng Nhật Minh đã làm cho hàng triệu khán giả Việt Nam xúc động, vì đó là tiếng nói của trái tim đập vì nhân dân, vì đất nước. Phim Đặng Nhật Minh cũng đã làm cho hàng triệu người xem trên thế giới hiểu và yêu mến đất nước Việt Nam hơn. Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã đi đến tận cùng truyền thống văn hóa dân tộc để có những bộ phim để đời.

Trong lễ bế mạc Liên hoan phim Việt Nam, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà phê bình phim quốc tế, ông Klaus Eder, người Đức, đánh giá: “Đạo diễn Đặng Nhật Minh là người đã đưa điện ảnh của các bạn đến với thế giới”. Năm 1994, tại Liên hoan phim Nantes (Pháp), sau khi xem trong phim “Trở về” của Đặng Nhật Minh, ông Marcel Martin, nhà phê bình phim nổi tiếng Pháp đã nói với đạo diễn: “Bây giờ thì anh có thể hội nhập với điện ảnh thế giới được rồi”.

Nghe câu đánh giá đó, Đặng Nhật Minh khiêm tốn tâm sự: “Tôi hiểu câu nói ấy có nghĩa rằng từ nay tôi được xếp vào chiếu của làng điện ảnh thế giới. Chiếu dưới thôi. Nhưng được ngồi vào chiếu đó không phải dễ. Muốn ngồi được chiếu trên, chiếu giữa thì khó lắm. Có thể không bao giờ...”.

Rõ ràng để giành được giải cao tại các cuộc Liên hoan phim quốc tế như Cannes (Pháp), Berlin (Đức), Venise (Italia), hay cao hơn được đề cử vào giải Oscar (Mỹ), thì vô cùng khó khăn. Muốn được thế, ngoài tài năng, tâm huyết, tư tưởng lớn, quan trọng hơn là phải có “môi trường điện ảnh” thông thoáng, hội nhập thế giới

Ngô Minh
.
.
.