Nguyễn Bính và em

Thứ Bảy, 24/03/2018, 17:56
Không tình cờ, trong thơ Nguyễn Bính, tình tự sâu thẳm nhất của tâm hồn thi sĩ lại thuộc về nhân vật phụ nữ Việt với bi kịch ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh của thân phận đàn bà, thời Việt Nam thuộc Pháp, kéo dài suốt nửa đầu thế kỉ XX.

Càng không tình cờ, Nguyễn Bính duy nhất ngưỡng mộ thi hào dân tộc Nguyễn Du và nhân vật Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tuy lấy gốc tích từ “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc, nhưng Nguyễn Du phóng tác thành “Truyện Kiều”, chữ Nôm, phổ vào đấy tình điệu Việt, theo thể lục bát thuần Việt, mang rực rỡ thâm sâu hồn Việt, vốn đã thấm thía trong ca dao, tục ngữ của văn hóa dân gian Việt.

Quả thật Nguyễn Bính chịu ảnh hưởng Nguyễn Du theo cách thơ mới của riêng ông, một thi nhân Việt mang đằm thắm tình tự đồng quê Việt, đứng đầu trào lưu Thơ Mới. Thơ Nguyễn Bính có cả một thế giới buồn thương, khởi sinh từ thân phận bi kịch của phụ nữ Việt và của chính ông, mất mẹ từ 3 tháng tuổi.

Thế nên, Nguyễn Bính đã không chỉ là thi nhân viết về họ. Thuận theo thi pháp Nguyễn Du viết Kiều, ông lặn ngụp, chìm sâu vào thế giới bi kịch ấy, xuống tận đáy đau buồn của thân phận phụ nữ Việt. Và mặc nhiên, Nguyễn Bính thành thi sĩ-phát ngôn thơ cho họ.

Vậy, Nguyễn Bính là người đứng trong phe nước mắt, không chỉ đứng về, như thi sĩ Dương Tường tuyên ngôn đầu thế kỉ XXI: “Tôi đứng về phe nước mắt”. Nguyễn Bính thật xứng với tư cách thi sĩ-hiệp sĩ, trong sự bênh vực, sẻ chia nỗi niềm phụ nữ Việt hiện đại trong thơ mình. Và, vì thế, Nguyễn Bính đã khắc cốt một nhân vật trữ tình riêng. Độc đáo và lộng lẫy. Đó là nhân vật trữ tình Em.

Cơ duyên xuất hiện… Em

Hình như mất mẹ quá sớm đã là định mệnh buồn đau nhất đời Nguyễn Bính (3 tháng tuổi, nào đã biết gì. Càng sống mới càng biết). Chính định mệnh khủng khiếp ấy đã tạo tác một Nguyễn Bính chan chứa bản năng thi nhân, như thể bị/được “giời đày làm thơ”. Bởi vậy, Nguyễn Bính tự mình vào đời thi sĩ từ rất sớm. Từ độ ấy đã vận vào thơ mình nỗi buồn thương đẫm đầy về số kiếp đàn bà Việt, thường là bạc phận. 

Và tự nhiên tích tụ thành chủ đề thơ xuyên suốt và chủ cách thơ độc đáo Nguyễn Bính, trong 7 tập thơ xuất bản trước Cách mạng Tháng Tám 1945: Tâm hồn tôi (1940). Lỡ bước sang ngang (1940). Hương, cố nhân (1941). Một nghìn cửa sổ và tập thơ Bướm (1941). Mười hai bến nước (1942). Người con gái ở lầu hoa (1942). Mây tần (1942).

Không ngẫu nhiên, Lỡ bước sang ngang thành tên tập thơ xuất bản năm 1940, và tác thành kiểu tứ thơ căn bản tài tình của Nguyễn Bính về đàn bà Việt thường bạc phận trong hôn nhân: cứ đến tuổi là phải đi lấy chồng, vì đủ mọi lý do, ngoại trừ tình yêu, dẫn đến hôn nhân phi tình yêu điển hình cho phụ nữ Việt nửa đầu thế kỉ XX. 

Sự điển hình về thảm cảnh “lấy chồng không yêu” của bài thơ này đã được người Việt ở khắp chợ cùng quê thuộc nằm lòng, ngân nga bổng trầm, đưa võng kẽo kẹt ru con, dưới mái nhà gianh sau lũy tre làng, suốt từ khi nó ra đời, đến nay đã gần 8 thập niên. 

Ở phố đi bộ Hàng Đào và ở Đại học KHXH&NV, trong 2 thập niên đầu thế kỉ XXI, người Hà Nội và sinh viên Hà Nội vẫn rưng rưng nghe giọng xẩm huê tình của nghệ sĩ chèo Thanh Ngoan, trình diễn Lỡ bước sang ngang trên sân khấu đường phố và sân khấu học đường đại học...

Tứ thơ của bài thơ dài này được Nguyễn Bính thiết kế thật uyển chuyển, nối liền hai bờ thi hứng dân gian và hiện đại. Giọng thơ lục bát dân tộc làm nền cho đối thoại-độc thoại chị - em. 

Nhân vật Chị tâm tình, trải lòng cùng em gái trước cuộc lấy chồng, đoan chắc với em, cuộc “sang ngang” của chị đã như “một lần sảy bước ra đi/ Là không hẹn một lần về nữa đâu”

Biết không thể quay về thời con gái ở cùng mẹ, Chị xót xa thương mẹ, trăm đường nhờ cậy em gái trông nom mẹ già. Cũng vì biết chắc, cuộc lấy chồng này hoàn toàn vắng thiếu tình yêu, chị đắng lòng “lỡ bước”, mà “tan vỡ giấc mộng vàng từ đây”. 

Cảm biết tâm tình đớn đau sâu kín ấy, và “phổ” được nó vào lòng thể thơ lục bát cổ truyền, phảng phất cách thơ lục bát Nguyễn Du, tả cảnh Kiều trao lời khẩn cầu em gái Thúy Vân, thay mình nối duyên với Kim Trọng..., chỉ có thể là Nguyễn Bính. Thi sĩ đã tỏ rõ khả năng nhập hòa vào tình tự người con gái Việt thời hiện đại, nửa đầu thế kỉ XX, khi lâm tình huống điển hình và phổ biến “lấy chồng không yêu”... 

Chính kiểu tình huống mang dáng dấp hiện đại của thể loại truyện ngắn này, khi được đặt trúng vào hình thái bắng trắc ngọt ngào của thể thơ lục bát dân tộc, đã khiến rất nhiều phụ nữ Việt đọc thơ, đã phải thả chùng tâm hồn mình vào tình cảnh đáng thương của người con gái, chẳng may “lỡ bước sang ngang”: “Chị tôi nước mắt đầm đìa/ Chào hai họ để đi về nhà ai”. Và thế là, “năm 17 tuổi, chị đi lấy chồng. Người ta pháo đỏ rượu hồng/ Mà trên hồn chị một vòng hoa tang...”.

Sau mười năm lấy chồng, tình cảnh “chị tôi” càng thê thảm: “Mười năm gối hận bên giường/ Mười năm nước mắt bữa thường thay canh/ Mười năm đưa đám một mình/ Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên/ Mười năm lòng lạnh như tiền/ Tim đi hết máu, cái duyên không về...”

Thế rồi, giữa cảnh hôn nhân cùng đường cụt ngõ ấy, “chị tôi” bỗng gặp một chàng nghệ sĩ, trong “một đêm hè, hoa xoan nở, xác con ve hoàn hồn/ Dừng chân trên bến sông buồn/ Nhà nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang”. 

Chàng nghệ sĩ gió bụi kinh thành này, tưởng thế thôi, nhưng vẫn biết đò đã sang sông, duyên phận “chị tôi” đã lỡ. Song, chàng vẫn không ngăn nổi đoái thương, (cũng chính là sự đoái thương vô bờ của thi sĩ Nguyễn Bính, khi ấy mới chớm tuổi đôi mươi, nếu căn cứ vào năm xuất bản tập thơ, 1940): “Đoái thương, thân chị lỡ làng/ Đoái thương, phận chị dở dang những ngày”. 

Và cuộc tình muộn, nhưng đong đầy hạnh phúc đã diễn ra, được Nguyễn Bính miêu tả huy hoàng. “Chị tôi” được cứu rỗi và tái sinh: “Thế rồi máu trở về tim/ Duyên làm lành chị/ duyên tìm về môi/ Chị nay lòng ấm lại rồi/ Mối tình chết đã có người hồi sinh/ Chị từ dan díu với tình/ Đời tươi như buổi bình minh nạm vàng”

Song, chính “chị tôi” cũng tự cám cảnh mình: “Yêu chỉ để mà yêu”, “chị còn dám ước một điều gì hơn”. Và điều xảy đến đã phải xảy đến: “Rồi đêm kia, lệ ròng ròng/ Tiễn đưa người ấy sang sông chị về”. Đời chị rốt cuộc quay về cảnh cũ buồn hiu, chỉ khác trước có một điều được Nguyễn Bính miêu tả tinh tế, thi sĩ như nén một tiếng thở dài: “Tháng ngày qua cửa buồng the/ Chị ngồi nhặt cánh hoa lê cuối mùa!”. Nhặt cánh hoa lê cuối mùa, Nguyễn Bính đã nhập vào “chị tôi”, cùng chị “úp mặt vào hai bàn tay/ Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm”

Và buông bỏ mình trong ngẫm ngợi, có yêu chàng nghệ sĩ đến mấy, “chị tôi” cũng “khôn buộc nổi cánh chim giang hồ” của người đã “khoác áo phong trần”. 

Người ấy là kẻ lữ hành, một hình ảnh tiêu biểu của Thơ Mới, hiển thị trong chính chủ thể thơ Nguyễn Bính, và một số nhà thơ khác, như thi sĩ Thế Lữ đấy, luôn xê dịch trên đường thiên lý: “Mũ lợt bốn phương trời sương nắng gội”, để “rũ áo phong sương trên gác trọ/ Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang”...

Người tình phong sương ấy của “chị tôi” đã vĩnh viễn ra đi, để lại sầu thương còn trĩu nặng hơn cả cái ngày “chị tôi” 17 tuổi, mới “lỡ bước sang ngang”: “Người đi xây dựng cơ đồ/ Chị về trồng cỏ nấm mồ thanh xuân/ Người đi khoác áo phong trần/ Chị về may áo liệm dần nhớ thương”

Và bài thơ dài kết thúc, để mở ra kết cục mênh mông bi thảm, bế tắc về sự sống của “chị tôi”, sống mà như chết, khổ chưa? Nếu không phải Nguyễn Bính thì ai có thể viết được một câu chuyện tình duyên đàn bà đau thương đến thế: “Chị giờ sống cũng bằng không/ Coi như chị đã ngang sông đắm đò...”.

Kiểu tình huống thơ, kiểu câu chuyện thơ, đặc biệt là tâm trạng của nhân vật trữ tình “chị tôi”, trong bài thơ dài Lỡ bước sang ngang, viết năm 1939 này, quả là điển hình chói sáng nhất trong thể giới “nhân vật trữ tình Em” (mà tôi đã dùng như một đại từ phiếm chỉ, về phụ nữ) của thi sĩ Nguyễn Bính và dường như, chỉ của Nguyễn Bính.

Một thế giới phong nhiêu về Em

Thơ Nguyễn Bính, nếu được coi là cả một thế giới thơ phong nhiêu về nhân vật trữ tình Em, không phải là nói quá. Và cũng như bậc thầy thơ lục bát Nguyễn Du, chỉ viết về một nhân vật trữ tình Kiều, trong suốt chiều dài mấy ngàn câu lục bát Truyện Kiều, thì thế giới thơ của Nguyễn Bính đã hiện diện rất nhiều nữ nhân vật, là mẹ, là chị, là em, là con gái, là đàn bà... 

Mỗi nhân vật đều có tâm trạng riêng trong những hoàn cảnh phần nhiều là buồn thương bi đát: Cô thiếu nữ nhà quê trong bài Chân quê có mỗi một lần đi tỉnh chơi, khi trở về làng, chỉ thay mỗi bộ yếm áo quê mùa bằng một bộ khăn nhung, quần lĩnh, áo cài khuy bấm, đã khiến anh trai làng, người yêu cô thấy ngay là mình bị làm khổ. Làm khổ, vì thấy xống áo quê mùa của cô đã biến mất. 

Anh trai quê trong bài thơ đã dồn dập chất vấn: “Nào đâu chiếc yếm lụa sồi, chiếc khăn lưng đũi nhuộm hồi sang xuân? Nào đâu chiếc áo tứ thân, chiếc khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?”. Nhớ từng món đồ nhà quê cô gái mặc và thấp giọng: “Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa/ Như hôm em đi lễ chùa, cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh”.

Vân vi gần xa, chàng trai quê thuyết phục người yêu, bằng một ví von dễ thương, tình tứ: “Hoa chanh nở giữa vườn chanh/ Thầy u mình với chúng mình chân quê/ Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”.

Thật là lời van xin đầy tình tự dân gian đồng quê Việt và thấm thía lời trách móc rất huê tình, đúng kiểu Việt, tưởng nhẹ như bấc, hóa ra lại nặng như chì. Bởi ai mà đong đếm được những hương những hoa đồng cỏ nội trong ngọn gió xuân thổi êm ái trên đồng lúa đương thì như câu kết bài thơ này. 

Và ai đong đếm được sức nặng của lời trách: Hôm qua đi tỉnh về, em đã ít nhiều mất chân quê. Đó thật là lời trách huê tình bậc nhất của thi sĩ Nguyễn Bính gửi cô gái quê, đã hồn nhiên nhuốm bụi thị thành. Mà không hay biết!.

Tôi vẫn thường thương nhớ những câu thơ tình váng vất ca dao, tục ngữ vốn dĩ đã kết tinh trong lời ru của mẹ hát ru chị em tôi lúc nhỏ, nên rất đồng cảm và luôn quay về thơ tình Nguyễn Bính, với rất nhiều câu thơ huê tình tinh tế của ông viết từ thuở thi sĩ chưa đầy tuổi hai mươi. Chuyện tình yêu và những đại từ nhân xưng: mẹ con, anh em, chị em, tôi nàng, tôi cô... cứ như ngọt lịm trong thơ tình của ông. 

Ngay cả trong tâm trạng cay đắng bẽ bàng như “chị tôi”, đã sang ngang lỡ bước. Đây là những câu thơ hay trở về nhất của Nguyễn Bính, làm yên lòng người xa xứ, sống ở xứ người xa xôi, tuyết bay biền biệt trắng trời mà lòng không thôi nhớ, như Nguyễn Bính thuở nào:

- “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ mười mong một người”.

- “Nhà em cách bốn quả đồi/ Cách ba con suối cách đôi cánh rừng/ Nhà em xa cách quá chừng/ Em van anh đấy/ Anh đừng yêu em...”.

- “Lòng anh giếng ngọt trong veo/ Giăng thu trong vắt biển chiều trong xanh/ Lòng em cát bụi kinh thành/ Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe...”.

Vĩ thanh

Nguyễn Bính đã thơ như thế về tình yêu, về nhân vật trữ tình Em, về cả một thế giới đàn bà Việt vừa buồn thương vừa sâu đằm tình cảm, như thế và đến thế, bảo làm sao có thể không nhớ, không yêu và không mãi run rẩy trước thơ ông. 

Và chỉ riêng về một lẽ ấy thôi, thơ Nguyễn Bính sẽ còn tươi xanh mãi trong tâm tưởng người đọc, nhất là người đọc cùng tâm trạng với nhân vật trữ tình Em của thơ Nguyễn Bính! 

Nguyễn Thị Minh Thái
.
.
.