Làm sao em nhớ những vết chim di

Thứ Ba, 16/08/2011, 15:37
Ca từ Trịnh Công Sơn được mệnh danh là "lời của phù thủy". Do đó, việc hiểu đúng, hát đúng ca từ nhạc Trịnh là hết sức quan trọng, nếu không là "sai một ly đi một dặm"…

Cuốn sách "Thư tình gửi một người" tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ đã giải mã những hình ảnh, biểu tượng, những cảm xúc này, giúp người thưởng thức có những khám phá mới và thú vị về thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn.

Hình ảnh chim di xuất hiện trong ca khúc lừng danh Diễm xưa, ca khúc đánh dấu kỷ niệm mối tình của Trịnh Công Sơn với Ngô Vũ Bích Diễm (chị ruột của Ngô Vũ Dao Ánh): "Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, làm sao em nhớ những vết chim di".

Sau khi chia tay Bích Diễm, Trịnh Công Sơn đã nhận được tình cảm sẻ chia của Dao Ánh qua thư từ và từ đó, thư đi, tin lại, mối tình với Dao Ánh nảy nở. Hình ảnh chim di không xuất hiện trở lại với tên gọi nguyên nghĩa của nó trong các tình khúc hậu Diễm xưa nữa nhưng còn để lại dư ảnh buồn thương trong ca khúc Còn tuổi nào cho em viết cho Dao Ánh: "Tuổi nào ghi dấu chân chim qua trời" (Còn tuổi nào cho em).

Đặc biệt, hình ảnh chim di còn được Trịnh Công Sơn nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các trang thư tình gửi Dao Ánh, cho thấy bao nỗi niềm, bao dư chấn buồn đau của Diễm xưa còn trút gửi cả cho Dao Ánh: "Ánh rồi cũng làm loài chim di xám bỏ miền - giá - buốt này mà đi. Lúc đó anh chỉ còn ngồi nghe một lời bể động" (Thư Sài Gòn, 28/9/1964), "Tuy nhiên cũng không thể không buồn khi nhớ đến những vết chân chim di một lần cất tiếng hót cho mình và đã bay đi biền biệt" (Thư Blao, 27/10/1964). Vậy chim di là loài chim gì, sống ở đâu? Nhà thơ Phạm Tiến Duật kể: "Có một lần, khi nghe bài Diễm xưa, tôi bảo Trịnh Công Sơn rằng có một câu phải sửa, là câu này: "… Làm sao em nhớ những vết chim di".

Cả bài không nói tới một tên hoa, tên lá, tên chim nào, hà cớ gì lại có chim di! Có lẽ nên đổi là chim đi, chỉ nói đến vết chân chim, là đủ. Trịnh Công Sơn bảo rằng không sửa được, vì đấy là kỷ niệm riêng. Sơn nói về Huế nhưng viết ở Nha Trang. Ở Nha Trang mới có loài chim di giỡn sóng. Lũ chúng ta cũng chỉ như loài chim di giỡn sóng ở giữa đời này".

Như vậy, chim di dùng để chỉ những hình ảnh bay biến bất thường, không nắm bắt được, không cầm giữ được, giống như tình yêu mong manh vụt biến. Khái quát hơn nữa, chim di còn chỉ sự vô tăm tích của kiếp người trong cõi phù thế. Hình ảnh dạ lan được nhắc tới trong ca khúc Dấu chân địa đàng: "Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng". Ca khúc này còn có tên là Tiếng hát dạ lan.

Trịnh Công Sơn và Dao Ảnh.

Nhà Dao Ánh (cách nhà Trịnh Công Sơn một cây cầu là cầu Phú Cam) trồng nhiều hoa dạ lan và loài hoa này không chỉ thơm ngát trong vườn nhà Dao Ánh mà còn lừng hương trong nhạc Trịnh và trong nhiều bức thư tình tha thiết, da diết của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: "Dạ lan giờ này chắc đã ngạt ngào cả một vùng tối đó rồi, đã cài lên từng sợi tóc của Ánh" (Thư Blao, 31/12/1964), "Anh ao ước bây giờ mở cửa ra bỗng dưng có chiếc cầu bắc qua dòng sông và anh bước qua cầu rồi rẽ về phía tay phải đi đến căn nhà có mùi thơm dạ lan và đứng đó gọi tên Ánh thật thầm để chỉ vừa đủ Ánh nghe" (Thư Blao, 26/9/1965).

Dĩ nhiên, dạ lan trong vùng kỷ niệm của Trịnh Công Sơn cũng như trong nhạc Trịnh không đơn thuần để chỉ một loài hoa đáng yêu mà còn là biểu tượng, là hiện thân của vẻ đẹp và tình yêu thầm kín, thanh tao, thắm thiết của Dao Ánh, là biểu tượng, là hiện thân của cõi địa đàng, cõi thiên thai, cõi mơ ước hạnh phúc bất tuyệt muôn đời của nhân loại: "Mưa đã trở về cùng với đêm.

Như một ngày nào Ánh rời xa anh để trở về với nếp sống bình thường, ở đó Ánh đi trên lối đi quen thuộc của những người đã đi trước mà không cần phải nhìn những bảng số hai bên đường. Sẽ bình thường và thản nhiên quên đã một lần giẫm chân qua một vực - thẳm địa đàng mà anh đã linh cảm trước từ lâu, như "địa đàng còn in dấu chân bước quên" của một thời anh đã âm thầm nghĩ rằng biết đâu Ánh không lớn lên từ một loài dạ lan nào đó" (Thư Blao, 27/10/1964), "Bây giờ là tiếng nói đêm của anh với Ánh. Với Ánh dạ lan… ". (Thư Blao, 22/11/1964).

Cũng trong ca khúc Dấu chân địa đàng, bên cạnh hình ảnh dạ lan là hình ảnh loài sâu được nhắc đi nhắc lại với nhiều trạng thái như ngủ: "Mùa xanh lá loài sâu ngủ quên trong tóc chiều", ca hát: "Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng", giải thoát ưu phiền: "Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền". Loài sâu này chính là một phiên bản khác của phận người, ôm chứa những buồn vui của nhân sinh, điều này càng được thấy rõ hơn trong những bức thư của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: "Ngôn ngữ đã mất đi với những ngày nằm co như một loài - sâu - chiếu ở Blao" (Thư Đà Lạt, 19/9/1964), "Đêm sáng mờ bên ngoài. Sâu đất reo rất trong ở bãi cỏ". (Thư Blao, 23/10/1964), "Đêm rất dày đen. Sâu đất của núi rừng cũng đã reo lên âm thanh rất nhọn". (Thư Blao, 23/9/1965)…

Cùng với lối sử dụng hình ảnh ví von hay nhân hóa như vậy, đặc biệt, trong nhạc Trịnh có nhiều hình ảnh đã được nâng lên thành biểu tượng, chẳng hạn, biểu tượng mặt trời trong ca khúc Xin mặt trời ngủ yên. Dao Ánh, nguồn sáng huyền thoại tình yêu của Trịnh Công Sơn hiểu theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, vì chính cái tên Dao Ánh mang hàm nghĩa chỉ mặt trời.

Mà mặt trời là nơi hoa hướng dương luôn hướng về, nên Trịnh Công Sơn đã gắn hình ảnh Dao Ánh với vẻ đẹp lộng lẫy của hoa hướng dương: "Và xin mặt trời ngủ yên. Để Ánh là tournesol (hoa hướng dương - chú thích của người hiệu đính sách) mãi mãi. Anh tưởng tượng một khuôn mặt profil (nhìn nghiêng - chú thích của người hiệu đính sách) mà một đường sáng hồng của mặt trời chạy dài từ chân tóc đến trán - mũi - cằm. Thật huyền thoại như tượng". (Thư Blao, 3/9/1964).

Trịnh Công Sơn đã cắt nghĩa đầy sâu sắc, thú vị về tên người tình của mình, đồng thời, giải mã những cảm xúc sâu xa, chất chứa trong ca khúc Xin mặt trời ngủ yên: "Anh vừa học được cách viết bằng chữ Nho tên của Ánh. Và cũng nhờ thế anh biết được vì sao Ánh thích hoa mặt trời. Trong chữ Ánh có chữ Nhật là mặt trời. Và bài Xin mặt trời ngủ yên lại tình cờ có câu: ôi nhân loại, mặt trời trong tôi. Lúc viết bản này anh đã có câu đó vì anh nghĩ là Ánh thích hoa mặt trời và mặt trời là nơi hoa hướng dương nhìn về đó. Nên anh đã đem mặt trời nhốt vào trong anh". (Thư Huế, 1/12/1966).

Thật là chí lý, ý nhị và đáo để khúc nhôi. Chiến tranh đã mang đi bạn bè, không còn ai, ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương. Nhưng niềm tin ở con người, ở tình người trong nhạc Trịnh không bao giờ mất: "Ôi nhân loại mặt trời và em thôi", "Ôi nhân loại mặt trời trong tôi", "Ôi nhân loại còn người trong tôi"…

Thư tình gửi một người như vậy đã vượt qua giới hạn của những bức thư tình riêng tư, nói như nhà thơ Nguyễn Duy, "mối tình cụ thể không còn nhưng một mối tình biểu tượng vẫn còn mãi", giúp giải mã ca từ, soi chiếu thế giới nghệ thuật Trịnh Công Sơn.

Nó sống cùng những biểu tượng trong nhạc Trịnh, những biểu tượng về Trịnh và nó giúp soi chiếu những biểu tượng đó càng thêm lấp lánh, đúng như một quy luật của cái đẹp, của mỹ học mà nhà thơ Thôi Hộ thời Đường đã phát hiện: "Nhân diện đào hoa tương ánh hồng" (Hoa đào và mặt người cùng ánh lên sắc hồng)…

Nguyễn Hoàn
.
.
.