Vấn vương hương vị rau rừng

Thứ Sáu, 12/09/2014, 15:10
Ở nông thôn Tây Nguyên bây giờ, hai anh em Kinh Thượng hàng ngày lên xe máy mang gùi đi vườn đi rẫy với nhau. Còn vào mùa mưa, các chị, các em í ới gọi nhau đi hái rau rừng. Cũng ở vùng đất bạt ngàn cà phê này, lần đầu tiên rau hoang dã mọc theo bìa rẫy, ven suối hay tít tận rừng sâu, được các nhà sinh vật đặt tên bằng giấy trắng mực đen gần 200 loại. Và không biết tự bao giờ, rau rừng trở thành món ăn dân gian của mọi nhà mà còn “đổ bộ” về phố trở thành đặc sản.

Nếu mai này ở vùng đất Bazan, rau rừng trở thành rau nhà, thì Yàng ơi! bữa cơm của người dân vùng cao trở thành nỗi nhớ và các nhà hàng cũng sẽ trông chờ loại rau núi kia bằng đôi mắt đỏ lơ.

Vào giữa tháng 7, không biết có chuyện gì vui mà KJuin chạy xe máy đến nhà tôi bảo rằng “Ba, mẹ em mời Thầy lên chơi. Hôm nay nhà em làm cơm lam với món nòng nọc nấu lá bép và gỏi chuối rừng chấm mắm cua. Thầy nhớ lên!  Ba, mẹ em chờ!” KJuin cúi đầu chào tôi 15 độ theo phong cách người Nhật trước khi nổ máy ra về.

KJuin là học trò cũ của tôi 10 năm về trước, bây giờ là một thanh niên KHo lực lưỡng đẹp trai, cao ráo với nước da màu cà phê sữa và mái tóc xoăn. KJuin học xong trung học nhưng không thích vào đại học, em chỉ đam mê ngôn ngữ Anh, với ước vọng sau này nếu gặp người nước ngoài hoặc xem phim tây còn biết nói, biết dịch vài câu. Đối với bà con gốc Tây Nguyên, chất giọng thuộc hệ đa âm nên tiếp cận với ngoại ngữ như Anh, Pháp khá dễ dàng. Vì thế sau 3 năm ròng theo học, KJuin có thể nói lưu loát tiếng Anh bằng âm sắc Boston (giọng Bắc Mỹ) một cách tự nhiên. Tôi không biết KJuin về nhà ôn tập thế nào mà cả bố và con đều nói giỏi như nhau. Có lần KTuyn (bố KJuin) mời tôi đi cà phê phố, anh sử dụng tiếng Anh đúng ngữ pháp và âm điệu, ngữ điệu làm tôi thật sự ngỡ ngàng. Hỏi ra mới biết, ở trường con mình học bài gì về nhà anh ghi chép lại rồi bố con mở máy cùng nhau thực tập. Sau này tôi và KTuyn thân nhau hơn, chúng tôi thỏa thuận, tôi dạy tiếng Anh cho cả hai người và họ dạy tiếng KHo lại cho tôi, cứ thế mỗi lần gặp nhau tôi nói tiếng KHo, cha con KJuin nói tiếng Anh rồi cùng sửa câu cú và âm sắc cho hoàn chỉnh.

Sau bữa cơm truyền thống của một gia đình người KHo tiêu biểu, KTuyn và hai người bà con KHo của anh dẫn tôi vào rừng tìm rau với mục đích giúp tôi làm quen và nhận dạng thân, lá một số loài rau mọc lên từ các khu rừng. Anh vui vẻ nói với tôi bằng tiếng KHo: “Thầy bây giờ là người Tây Nguyên, nói được tiếng KHo, mang gùi đi rẫy, ăn được lá bép, cà đắng, chuối rừng chấm muối ớt mà không tự mình đi rừng hái rau thì chưa phải là người Tây Nguyên thật sự đâu ạ!”.

Lý lẽ của rừng

Cứ mỗi lần đi theo KTuyn vào rừng chặt đọt mây, hái măng… tôi càng vỡ ra nhiều chuyện. Rừng đối với người gốc Tây Nguyên không những là không gian sinh tồn dưới dạng vật chất mà đó còn là nơi để họ gửi gắm linh hồn. Hơn 60 năm trước, thời du canh du cư, già làng ở buôn nào đều kiêm chủ rừng khu đó. Vì thế, dân làng muốn chặt cây để làm nhà đều phải làm lễ cúng Yàng Bri (thần rừng). Trước khi đi, già làng căn dặn loại cây nào được chặt, cây nào để cho đời sau và cây nào để lại cho Yàng. Nếu không chấp hành luật tục ấy, người chặt rừng sẽ bị phạt trâu. Chính vì thế dù buôn làng có sống ở đấy 10 năm theo chu kỳ định cư, đến lúc ra đi rừng vẫn còn như nguyên vẹn để con cháu sau này còn cái ăn nơi ở.

Thiếu nữ KHo đi hái rau rừng.

Sống hòa hợp với đại ngàn là nguyên lý bất di bất dịch của người bản địa  từ bao đời nay. Trong luật tục các bộ tộc KHo, Mạ, Chil, Lạch, Churu, Raglai… đều có những quy định rất nghiêm ngặt trong việc khai thác nguồn lợi từ rừng. Muốn đốn cây lấy gỗ làm nhà sàn phải lựa cây không còn quả nảy mầm. Đi săn con thú, phải nhắm con nai, con nhím không có chửa, đi bắt cá dưới suối phải biết chừa lại con cái có mang và đi hái rau rừng cũng không được hái rau có bông để nó còn sinh sôi nảy nở.

Với quan niệm đó, cách ứng xử của người và rừng mới cùng nhau tồn tại. Điều ấy có nghĩa là còn rừng thì còn mình, mất rừng mình sẽ bị bơ vơ. Lý lẽ này cũng chưa thuyết phục đối với các nước có nền công nghệ cao, nhưng đối với Tây Nguyên, nơi một số thôn, ấp mà đời sống còn lệ thuộc vào rừng thì hoàn toàn có lý. Trên đường đi, KTuyn thấy một người bắt được hai con cá chửa, anh nhăn mặt lầm bầm nói với tôi “Thằng cha này ác thiệt, ai đời đi bắt cá chửa thì còn gì năm sau có cá để ăn. Người tham thì sẽ ăn hết phần của con cháu thôi!”. Ngày còn ngồi trên giảng đường, tôi cứ nghĩ mình là người nhiều chữ có thể tham gia góp ý người khác, nhưng khi lớn lên lăn lộn với cơm áo đời thường, mới nhận ra mình là một loại cây vô danh đứng giữa đại ngàn. Lần này lại được KTuyn dạy thêm bài học về ứng xử với rừng. Tôi cứ lầm lũi chân bước rập rình đúng nhịp theo anh trong câm lặng. Đến khi hái được 3 bó lá bép ngồi nghỉ trên tảng đá, anh còn nói: “Rừng có đời sống của rừng, người có đời sống của người. Nếu triệt tiêu cái này để cái kia tồn tại là sẽ triệt tiêu ngay chính mình. Bởi vậy, rừng và người phải dựa vào nhau để cùng tồn tại, Thầy ạ!”. Tôi lại há mồm nhìn anh đến mức ngơ ngác rồi ngẫm nghĩ về văn hóa buôn làng được điều hành bởi luật tục, bắt đầu hình thành từ một đứa trẻ qua các lễ thổi tai, tắm suối, đặt tên… đã ngấm vào máu như nền giáo dục của người Nhật và Do Thái bây giờ.

Trên đường đi hái rau, đúng vào lúc cơn bão Rammasun tràn qua vịnh Bắc Bộ, nên gió thổi thốc từng hồi, cây rừng chao đảo. Tuy về mặt kiến tạo, Tây Nguyên có địa hình nằm vắt vẻo trên cao nhưng về khí tượng lại là vùng trũng của mưa và gió. Vì thế bất kỳ cơn bão hay áp thấp nào sau khi vượt qua Philippines hướng vào biển Đông nước mình, cả 5 tỉnh đều bị ảnh hưởng. Ban đêm gió thổi rù rù, trời tối như mực, còn ban ngày mưa trắng cả bầu trời, gió thổi xoáy chiều cây cối vặn mình tạo nên một hình ảnh nhuộm màu giữa con người với rừng núi thâm u kỳ bí. Tháng 7 là mùa cà phê trái xanh trĩu cành nhưng trước sự va đập từ những cơn gió ăn theo của bão đã làm nhà vườn tái mặt. Trong cơn mưa dầm và gió lạnh buốt xương, hàng trăm người làm vườn lầm lũi vào vườn cà phê dùng dây nylon buộc cành nhánh tạo thế liên hoàn chống đỡ. Thế nhưng, sau những cơn mưa, cà phê trở nên tốt tươi xanh cả đất trời.

Mưu sinh nghề hái rau rừng

Thật may, trong chuyến vào rừng sáng nay, có KGột, KPrỉn là những người đi hái rau rừng chuyên nghiệp. Hai anh họ K này đã có trên 10 năm thâm niên lội rừng, hàng ngày hái rau, đào ngo mang về cho vợ bán. Vợ KGột là Ka Vui, người phụ nữ sương gió ngồi chợ cũng 10 năm có lẻ. Tôi quen với Ka Vui thật tình cờ trong lần đi mua lá bép và rau dớn… Thực ra, hàng tuần tôi vẫn nhìn thấy chị lặng lẽ trên đường mặc váy, đầu trần, mắt mở to, mang gùi, chân bước rập rình đúng nhịp, đó là nét đặc trưng của những người phụ nữ Tây Nguyên ngày trước.

Vợ KGột không biết đi xe máy, nhưng có một sức khỏe phi thường, chị có thể mang gùi đi bộ hàng chục cây số. Chồng chị mỗi lần gặp tôi đều vui vẻ nói tiếng KHo kể về người vợ chịu thương chịu khó của mình. Anh chia sẻ: “Kể ra bà Ka Vui nhà tui cũng hơi bị siêu! Bả bảo tui đi rừng đào gốc ngo, đi hái rau, hái lá cho bả đi chợ bán. Tui gùi Ngo và rau về nhà mệt muốn chết, còn bả gùi đi 10 cây số tỉnh queo ông ơi! Chưa nói là ngồi chợ suốt ngày trên nắng dưới nóng, hoặc trời mưa trùm tấm nylon chừa cái đầu ra, cố bán cho hết hàng. Mình làm chồng thấy vợ khổ cũng xót chớ ông”.

Chỗ bán nơi chị Ka Vui ngồi, không nhiều hàng lắm. Thực ra chỉ là một tấm nylon bạc màu rộng khoảng 3m vuông, trải lên nền đất ven đường. Gian hàng của chị thường có khoảng 15 bó lá bép bằng cổ tay, 10 thanh củi ngo, 20 ký măng rừng tươi cộng thêm đọt bí, đọt mây… tổng cộng vốn liếng trên dưới một triệu. Điều tôi trân trọng ở chị là tính chân thật và chữ tín trong mua bán. Có lần một phụ nữ mới sinh em bé hỏi mua măng luộc, chị không bán mà còn mang lá bép ra thay thế, chị nói: “Ăn lá bép vừa có sữa cho con vừa tốt cho mẹ. Măng tươi không tốt cho người có con đang bú đâu, cô ơi!”.  Tôi hỏi: “Chị bán măng mà bảo người ta đừng mua, vậy để mang về à! Mua bán phải có đức chớ! Có đức mình mới sống dai chớ!”, chị trả lời như một lập trình và nhìn tôi thương hại.

Gặp KGột lần này, thấy anh có vẻ già đi nhưng nụ cười trên môi vẫn thế. Tôi hỏi chuyện nhà, chuyện mua bán rau rừng của vợ chồng anh. KGột cầm vai tôi lắc lắc: “Bà Ka Vui nhà tui vẫn ngồi chợ ông ơi! Có vợ giỏi cũng đỡ lắm. Nhà có mấy sào cà phê nên phải làm thêm chớ. Tháng 7 là mùa rau rừng đi hái gần hơn, chứ tới mùa nắng đi xa khổ lắm. Thằng cha KPrỉn này hái rau rừng hơi bị siêu đó (KGột dí dí tay vào mặt bạn). Ông muốn hỏi chuyện đi rừng hái rau, gặp nó là đúng đài. Ông muốn mở to, nó nói to, ông mở nhỏ nó nói nhỏ. To nhỏ là sao! Tôi hỏi lại bằng tiếng KHo. KGột ngửa mặt lên trời cười sằng sặc: “Là đổ vô miệng nó một xị rượu, tui bảo đảm nó hát ra rau luôn. Thằng này tui rành nó như thò tay vào hang bắt cua mà!”, KPrỉn tủm tỉm cười đưa nắm đấm dứ dứ vào KGột một cách vui vẻ.

KPrỉn gần 50 tuổi. Với độ tuổi này, người ở phố còn phong độ, ra đường có thể âm thầm liếc ngang liếc dọc để nhìn trộm những  “bóng hồng sa mạc”. Còn người ở núi đã nhìn thấy hậu vận của mình. Chuyện của người ở phố và rừng có thể ví von bằng hai bó rau. Rau trồng vùng ven thành phố bao giờ thân lá cũng xanh tươi, tròn trịa bắt mắt nhưng tìm ẩn một điều gì đó giả tạo. Khó ai biết hôm qua, hôm kia người làm vườn đã xịt thuốc gì để giữ màu, giữ độ bóng hay loại thuốc bảo quản đầy độc tố giá 15 ngàn một bịch không rõ nguồn gốc. Còn bó rau rừng tong teo loằng ngoằng với sắc màu nhợt nhạt, nhưng đó là rau thật cả trong lẫn ngoài, không có thuốc trừ sâu, phân bón, hương vị được đất trời ướp lên hàng ngày.

Ka Vui bán hàng cho khách.

Căn nhà KPrỉn nằm lọt thỏm trong vườn cà phê đang mùa đầy quả. Ngoài trời vẫn mưa rào rạt, KPrỉn móc điện thoại di động gọi những người bạn cùng nghề hái rau rừng tập trung nhà anh làm vài xị đế với món cá suối kho sả và rau tàu bay luộc chấm muối ớt. Sau khi men rượu ấm dần lên, câu chuyện bốn mùa đi rừng được các anh bê hết lên bàn nhậu nóng hổi như vụ giàn khoan trái phép Hải Dương 981 ở quán cà phê phố cách đây nửa tháng. Các anh cho biết, rau rừng ở Tây Nguyên có trên 300 loại, giá bán từ 6 đến 10 ngàn/ký, nhưng có khoảng vài loại phổ biến nhất là: Rau cần dại, rau dớn, rau phấn, dưa núi, lá bép, cà đắng, sam đất, sâm đu đủ, rấy thon, tàu bay… Đó là những loại dân thành phố mua nên họ gọi thế, chứ còn tiếng địa phương như KHo, Êđê, Bana… lại gọi khác, chẳng hạn như djam biăp là lá bép, ya út là khổ qua rừng. Ông có mà học dài cổ 10 ngày chưa chắc nhớ tên nổi”. KPrỉn chặc lưỡi: “Trong các chuyến đi lấy rau, khổ nhất là đi lấy măng. Len lỏi trong rừng lồ ô, tre gai um tùm xen lẫn với những bụi mây đầy móc lưỡi câu, mới tìm được những búp măng đâm lên khỏi đám lá mục, nhưng phải tinh mắt mới thấy được, bởi màu măng cũng tựa như màu của lá rừng mục. Ở trong rừng, muỗi, mồng, vắt chả ăn thua gì, cái nguy hiểm là rắn độc, nếu bị nó cắn chỉ có kêu Yàng, chứ ở giữa rừng ai cứu cho mình. Còn chết người nữa là trượt chân té từ trên sườn núi xuống hoặc rơi tỏm xuống suối. Chưa hết, còn có tiết mục dính bẫy thú, thằng cha này mấy năm trước bị dính bẫy ngồi hú rát cổ họng kêu người tới gỡ. Bây giờ chắc khôn rồi”.

Có tiền mua bó rau rừng hoặc ngồi gát chân trong nhà hàng sang trọng thưởng thức món đặc sản này kèm theo mùi tỏi thơm lừng, cọng rau giòn giòn đăng đắng và có hậu. Không phải ai cũng có thể hình dung sự gian khó của những con người lầm lũi đi trong rừng sâu nhập nhòe tối sáng để đánh cược mạng sống của mình với giá một 120 ngàn một ngày trèo đèo lội suối, máu chảy thành dòng từ những con vắt đưa vòi chờ đợi trên mặt lá ủ kia.

Và rau rừng ra phố

Ngày nay không ít người lo âu về các loại rau nhà. Vì phần lớn rau này được chăm bón bằng thuốc kích thích có nhiều độc tố hoặc tưới tiêu bằng loại nước “trời ơi” ảnh hưởng đến sức khỏe từ hóa chất lẫn giun sán thì việc rau rừng lên ngôi là điều dễ hiểu. Hiện nay, nhiều gia đình ở phố luôn tìm rau rừng để mua vừa rẻ vừa sạch lại ngon. Một số rau như măng, lá bép, khổ qua rừng, đọt mây, ớt sim, rau dớn… đã trở thành đặc sản trong các nhà hàng sang trọng.

Tháng trước, có dịp dạo quanh các chợ Tân An, chợ Alê của TP Buôn Ma Thuột. Nhiều phụ nữ Ê Ðê gùi bán những bó lá bép, khổ qua rừng xanh mướt với giá 10.000-15.000 đồng/bó, cà đắng 25.000 - 30.000 đồng một bịch (khoảng 2kg)... Tuy nhiên, những sản phẩm dân dã này khi vào nhà hàng trở thành các loại đặc sản, được nhiều thực khách ưa chọn với giá 100.000 đồng/đĩa. Bà HRngo người chuyên đi mua các loại rau rừng của dân bản địa cho biết cứ theo mùa, bà đều mua đem ra sạp hàng của mình để bán hoặc bỏ mối cho các nhà hàng. Mỗi bó lá khổ qua 10.000 đồng hay lá bép 4.000 đồng là đủ cho một bữa ăn của một gia đình bốn người. Ngoài ra, lá bép, lá khổ qua hay lá dầm tang đều có thể nấu canh, xào với cá  khô, cá hấp ăn rất ngon. Bà HRngo cho biết trước đây còn nghèo, bà con thường chỉ luộc một ít rau chấm với muối ớt do người bản địa chế biến, không cầu kỳ như bây giờ. Muối ớt của người đồng bào được làm từ nhiều thứ rau, lá khác nhau nhưng phải có muối hột, hành tăm, ngò gai, ớt xiêm. Bây giờ các nhà hàng cũng làm thế. Còn ở Đà Lạt, khá nhiều nhà hàng cho biết đa số du khách khi đến đều hỏi rau rừng. Đặc biệt, hai món mồng tơi và cà đắng nấu với thịt bò, thịt trâu được thực khách yêu thích. Để có nguồn rau cung cấp cho thực khách, quán phải dặn mối từ trước, thậm chí cho người vào tận xóm làng thu mua trực tiếp.

Đi hái rau rừng.

Rau rừng hiện nay không những là món chủ lực của các nhà hàng lớn ở Tây Nguyên mà còn lên xe tải về tận Nha Trang hay TP Hồ Chí Minh, chỉ cần ngày nào thiếu rau rừng thì ngày đó doanh thu nhà hàng giảm hơn một nửa. Có khách hàng cho biết “Lúc đầu không ăn được vì món nào cũng đắng và cay, nhưng ăn một vài lần hợp khẩu vị rồi cứ đến hoài. Những món này ngồi lai rai với bạn bè rất thú vị vì chúng có vị đắng nhưng rất có hậu nên không thấy ngán”.

Tuy nhiên, ít người biết rằng, sự xuất hiện của rau rừng trên thị trường cũng có điều hay và cũng có việc chẳng lành. Vì đa số người bỏ mối mang từ buôn làng về giao lại nhà hàng chỉ để kiếm lời mà không bảo đảm sự an toàn cho khách. Còn thực khách thì muốn ăn thử cho biết nhưng ăn xong lại lo âu về loại rau lạ. Chính vì thế, khoa sinh ở Trường Đại học Đà Lạt đã bắt tay vào xác định các loại rau có thể ăn được và đặt tên cụ thể. Những cây rau rừng một thời “cù bất cù bơ” mọc lang thang ở núi rừng heo hút kia nay được đưa vào danh mục đặc sản có giá trị dinh dưỡng và trị bệnh cho con người. Theo thạc sĩ Lương Văn Dũng, khoa Sinh của Trường Đại học Đà Lạt cho biết: “Hầu hết loài rau rừng được nhóm nghiên cứu tìm thấy khắp nơi trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, trong đó 126 loài rau rừng có loài đẳng sâm, 32 loài vừa ăn vừa làm thuốc rất tốt cho sức khỏe.

 * * *

Trong những lần đi hái rau trong rừng với những người bạn KHo hay đi phiên dịch cho người nước ngoài. Ngồi trong các nhà hàng sang trọng, tôi mới nhận ra thế nào là rau thô và thành phẩm. Tuần trước đi hái rau dớn với KGột về bán 10 ngàn một bó, thì nay ngay tại nhà hàng này cũng loại rau đó bán ra 100 ngàn một đĩa. Đôi lúc ngồi một mình uống cà phê giữa lưng đèo lạnh ngắt nhìn những chiếc xe tải chở Bôxit nặng nề bò xuống. Tôi lại liên tưởng những mặt hàng thô của nước mình từ Bôxit, dầu, titan, nhựa cao su, hải sản… cứ thi nhau xuất khẩu theo dạng mì ăn liền. Rồi tự hỏi tại sao 9 ngàn giáo sư và 24 ngàn tiến sĩ nước mình không tư vấn cho Chính phủ để chế biến các mặt hàng chiến lược ra thành phẩm như bó rau dớn kia. Đến một lúc nào đó, tài nguyên của ông cha để lại không còn gì để bán. Ngồi nhìn các em các cháu KHo chạy xe máy xuống đèo vù vù, tôi bỗng nhớ lời KTuyn lầm bầm với người đàn ông bắt được hai con cá chửa bằng ngón chân cái: “Người tham thì sẽ ăn hết phần con cháu mình thôi!”

Trần Đại - Phạm Thúy
.
.
.