Nghe xẩm tàu điện: 'Vui nhất có chợ Đồng Xuân...'

Thứ Sáu, 02/10/2015, 11:00
Tối thứ bảy hôm rồi, nghe các nghệ sĩ đóng vai người mù hát xẩm, tưởng vui vì đàn sáo rộn ràng, nhưng tôi lại thấy bùi ngùi vì nhớ lại một thuở lang thang, nay đây mai đó của những người hát rong. Nhất là nghe đến bài “Vui nhất có chợ Đồng Xuân” thì hình ảnh hai bố con người hát xẩm lếch thếch, lập bập bước chân, leo lên sàn tàu điện lại hiện về như ngày nào trong tâm trí tôi.

Tiếng hát bỗng vẳng lên ở đâu đó trong quá khứ chứ không phải dưới ánh đèn màu và tiếng loa lanh lảnh, ở góc chợ Đồng Xuân. Lời ca thong thả theo tiếng nhị, phách:

“Hà Nội như động tiên sa. Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần.
Vui nhất có chợ Đồng Xuân í a, mùa nào thức nấy a xa gần đến i mua.
Mà cổng giữa a có chị i hàng ì dừa hàng cau này
Hàng quýt í, hàng dưa rồi hàng hồng
Ai ơi i i, đứng lại mà trông hàng vóc này hàng nhiễu
Thong dong i rườm rà.
Có chị hàng hoa chứ ngoài chợ có chị hàng hoa
Có người đổi bạc đi ra đi vào chứ nào hàng bún nấu bán rao
Bún nấu bán rao chứ nào hàng bún nấu bán rao
Tào hàng kẹo đạn ấy chứ phở xào
Rồi ngô bung lại thêm bánh rán kẹo vừng...”

Xe điện một thời.

Các nghệ sĩ hát nghe tưởng cởi lòng nhưng lại điểm tô nhưng nỗi ẩn ức về phận đời. Tiếng cô bé hát đế theo người bố, sao mà cô đơn, thắt ruột làm vậy. Vì đời những người hát xẩm rong cực hết chỗ nói. Nói chữ là nghệ sĩ nghèo nhưng họ đều ở cái hạng cùng khổ. Nơi ăn chốn ở của người hát xẩm rong, một đời gắn với xó xỉnh tạm bợ bên cạnh với rác rưởi, bờ sông, ven chợ mà thôi. Tiếng hát ngỡ như mua vui nhưng vẫn ai oán nẫu ruột. Có bài nghe rộn ràng đấy nhưng lại ẩn giấu nỗi buồn thầm lặng và những giọt nước mắt tha phương...Vì vậy bài xẩm tàu điện xưa “Giăng sáng vườn chè”, lời thơ Nguyễn Bính lại là khát vọng sống, niềm vui mong manh nhờ vào hoài bão của sự lãng mạn đến kỳ lạ của người nghèo.

Lời ca ấy cứ vang lên cùng tiếng ken két của bánh xe bằng sắt, khi rẽ sang ngang và tiếng leng keng của chuông tàu điện. Mọi người đi tàu lắng nghe và ai nấy đều cảm nhận như những người hát xẩm rong kia đang bày tỏ hộ mình một điều gì đó nằm trong miền tâm thức, đã ngủ quên theo thời gian:

“Sáng giăng sáng cả vườn chè
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau
Vì tằm em mới phải chạy dâu
Vì chồng em mới phải qua cầu đắng cay...”.

Rồi tiếng chuông leng keng rung lên khi thư thả để nhắc nhở, khi lại rộn lên như nỗi bực mình của người lái tàu, và lại có khi rộn rã như báo hiệu tới bến. Cứ thế các ngả đường về năm cửa ô Hà Nội, tàu điện cứ reo chuông và rít lên tiếng bánh xe, khi phanh lại. Nhưng giọng hát, tiếng nhị cùng tiếng phách vẫn chòng chành theo thời gian. Biết bao ký ức dội về trong tôi về những chuyến tàu điện ngày ấy rung chuông leng keng trên đường phố...

Đâu như nhà máy xe diện được xây dựng từ năm đầu thế kỷ XIX, ở phố Thụy Khuê, cùng thời với Ga hàng Cỏ và cầu Long Biên cơ đấy. Không hiểu tại sao tàu đều tập trung từ bến hồ Hoàn Kiếm, thường gọi tắt là Bờ Hồ, rồi tỏa đi các tuyến như Bạch mai, chợ Mơ, Hà Đông, Cầu Giấy, chợ Bưởi. chợ Đồng Xuân, Yên Phụ. 

Hồi ấy ai lạc đâu thì lạc cứ nhảy lên tàu điện về hồ Hoàn Kiếm, rồi tính tìm đường về nhà sau. Lên tàu lại được nghe hát xẩm ai cũng thấy vui và còn được ngắm nhìn phố phường, người người đi lại, gánh gồng, cãi vã vui đáo để. Hồi ấy, không cậu học trò tinh nghịch nào không nhảy tàu, từ cửa này lại tót sang cửa kia, để trốn vé. 

Lắm hôm tàu đầy khách, hàng chục người cứ bám lấy bậc cửa tàu, hoặc tay sắt, cố đi cho bằng được, làm con tàu cứ ì ặch, lặc lè đi về bến, chậm như bà già đi trên đường vậy. Nom buồn cười lắm. Ấy là vào cữ tan buổi chợ hoặc tầm đi làm về của những người thợ. Chứ còn bình thường cũng tấp nập mọi người lên xuống nhưng con tàu có vẻ nhàn nhã, rung chuông vui để báo mọi người và xe cộ tránh đường. Mà cũng chỉ lúc đó cánh hát xẩm mới có chỗ leo lên, rộng cánh tay kéo nhị được.

Nhất là vào ngày chủ nhật, thì tha hồ tàu nhẹ bụng, chỉ có người đi chợ sớm, còn nhiều chuyến sau đó chỉ rặt người đi chơi đây đó hoặc thăm nom nhau. Nhất là trẻ con đợi bố mẹ cho lên Bờ Hồ ăn kem và biết rằng thể nào cũng được đi tàu điện, nên chẳng còn gì vui hơn nữa. Nhiều hôm vào dịp cưới xin ăn hỏi, nhiều gia đình vẫn rủ nhau đi tàu điện vì tiện đường mà lại rẻ. Và nhất là còn được nghe hát xẩm thì còn gì thích hơn nữa nào. Đúng là tàu điện tiện mọi bề.

Lại còn có chuyện nhiều người đi bán thuốc chữa bệnh gia truyền cũng coi tàu điện là phương tiên hữu hiệu để tiếp thị với khách hàng. Ngày ấy còn bé, nhưng đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ các loại thuốc được rao bán trên tàu điện như: Thuốc cam hàng Bạc, thuốc ho bà lang Trọc, dầu cù là, hoặc thuốc chữa đau răng... Người bán thuốc cứ quảng cáo và rao hàng, mặc kệ những người hát xẩm mải miết kéo nhị réo rắt, miễn sao có người mua thuốc. Mặc cho sự ồn ào vây quanh, người bán vé tàu điện chẳng bỏ sót một ai, chỉ trừ mấy cậu học trò ranh ma, nhảy tàu như cơm bữa.

Mãi sau này có lần tôi được nghe người già kể lại rằng, chính cụ Tùng Nguyên, một nghệ nhân nổi tiếng đã tìm cách đưa hát xẩm lên tàu điện, với các mượn thơ Nguyễn Bính để hát. Vì thơ lục bát rất hợp với làn điệu xẩm, mà xẩm tàu điện về cơ bản chỉ có một làn điệu, nhưng các nghệ nhân đã vận dùng thêm các câu hát xẩm khác xen kẽ như, điệu trống quân, xẩm chợ, điệu huê tình, nên xem ra xẩm tàu điện nghe cũng đỡ nhàm. 

Chả thế xưa đến mẹ tôi bán hàng khô ở chợ Đồng Xuân cũng thuộc vanh vách các bài “Chân quê”, hoặc “Lỡ bước sang ngang”, hay “Lửng lơ con cá vàng”, còn bài chính của xẩm tàu điện là “Giăng sáng vườn chè” thì chẳng nói làm gì, đến tôi cũng thuộc. 

Thế mới biết tàu điện bỗng trở nên địa chỉ văn hóa của người dân Hà Nội, rất lâu bền và rất thị dân. Nó rất lâu bền bởi lẽ trong suốt gần trăm năm, tính từ 13/9/1900, tàu điện chạy chuyến đầu tiên, đến năm 1992, là thời gian tàu điện bị xóa sổ, thì người dân Hà Nội phần lớn là chỉ đi tàu điện. Vì trước đó phương tiện giao thông của Hà Nội chỉ có xe tay kéo, đến xích lô, hoặc xe đạp, nên tàu điện là người bạn đường thân thiết của bao lớp người dân Hà thành xưa. Chính vì thế nên xẩm tàu điện cũng trở nên món ăn tinh thần không thể thiếu của mọi người.

Một tiết mục hát xẩm ở chợ Đồng Xuân.

Lẽ dĩ nhiên, số người dân của Hà Nội xưa không đông và thành phố chỉ khép trong khu vực 36 phố phường nên tầu điện ra đời là rất hợp lý và cũng là phương tiện giao thông hiện đại lúc bấy giờ. 

Mãi tới năm 1929, nghĩa là 30 năm sau, Ga tàu điện Bờ Hồ mới tỏa đi được 6 ngả đường, đến 6 cửa ô, nối nông thôn với thị thành. Ga tàu điện Bờ Hồ ngày ấy chính là ngôi nhà “Hàm cá mập” mới xây sau này. 

Ngay cả toa tàu cũng thế, đầu tiên chỉ có hai toa, sau đó mới có 3 toa, hiếm lắm mới có dịp nối 4 toa vào thời điểm hội hè lễ tết, hoặc để toa cuối chở hàng cho người tiểu thương. 

Cái ngày xưa ấy, khi thấy cái hay của giao thông bằng máy điện, các cụ đã phải làm những câu vè truyền miệng để ghi lại cái thú vị của nó. Lắm người ở lứa 70 tuổi trở về trước vẫn còn thuộc lòng các câu vè như:

“Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài
Sinh ra đèn điện thắp hoài năm canh
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường...”.

Hoặc có câu tả rất ngộ:

“Xưa nay có thế bao giờ
Có chiếc tàu điện đứng chờ ngã ba
Đàn ông cho chí đàn bà
Hễ tàu vừa đến lấy đà nhảy lên...”.

Riêng bố tôi hay bắt tôi nghe câu về giá vé:

“ Ba xu ghế gỗ rẻ tiền
Toa sau thì để xếp riêng gánh gồng
Năm xu ngồi ghế đệm bông
Hỏi mình có sướng hay không hỡi mình”.

Thực ra bài vè này cũng được những người hát xẩm ngân nga truyền khẩu, theo nhị hồ trên tàu điện, nên nhiều người thuộc lòng vì vậy. Bao ký ức cứ ùa về trong tôi qua tiếng xẩm của ca sĩ Mai Tuyết Hoa. Đôi mắt ấy sao long lanh đến thế làm tôi chợt nhớ đến cô bé dẫn người bố mù, đi dọc vỉa hè, đang nhỏ lệ dưới trời mưa. Ai đó chợt đụng vào tôi làm tan hình ảnh hai bố con người hát xẩm. Tiếng cười của các cô gái đi mua hàng ở chợ đêm vang lên ríu rít. Tôi đi theo về bến tàu điện xưa ở Bờ Hồ với bao tiếng chuông rộn rã.

Lại nghe, sắp tới có một tuyến đường tàu điện ngầm, chạy từ ga Hà Nội về tận Nhổn, dài 14km. Ôi! Thật hay biết bao. Quả chẳng thể có lại được tiếng chuông leng keng vì giờ đường sá chật chội và người tụ về nội thành chật như nêm vậy. Nghĩ đến con tàu hiện đại mà cứ như giấc mơ. Này nhé con tàu điện ngầm có những 5 toa dài tới 100m. Vậy có tới vài trăm người đi cùng nhau ấy chứ. Vui nhưng chắc chả còn bố con nhà hát xẩm nữa. Vậy còn tiếng chuông leng keng thì sao? Họ có thể làm được chứ. Thì hẳn! Rất có thể, trong tuyến đường sắt sang trọng như cung điện kéo dài ấy sẽ có tiếng chuông điện leng keng chứ không còn phải là tiếng giậm chân cuống quýt của người lái tầu điện già và khó tính ngày nào.

Mộ La
.
.
.