Biển buồn
Lơ lửng giữa đất trời
Dưới lòng biển là thế giới màu sắc quyến rũ nhưng cũng là nơi yên nghỉ của khối những con người bất hạnh không gặp may đi trên biển. Còn dưới lòng rừng là mặt đất. Đứng chắc trên mặt đất là sự sống. Và bên cạnh sự an ủi, ôm ấp rất lòng mẹ ấy có bao điều quyến rũ với những núi non, cây cối, hoa lá… Còn nếu trèo lên non cao, tưởng như bắt được sao trời. Đầu chạm mây ngàn, mắt ngút xa hàng dặm. Mê không tả được cái cảm giác mình lơ lửng giữa đất và trời.
Đi núi bao giờ cũng hào hứng hơn là thế. Nhưng lần này bạn rủ ra biển. Mũi Né – Phan Thiết nhé. Một nơi chưa từng đến dù thiên hạ đã tới ăn mòn bát, ngủ mòn giường, chơi mòn cảm xúc. Nghe nhiều rồi. Bảo đẹp lắm… Xem ảnh thì biết vậy vì ảnh bây giờ cũng khó tin. Cho vào photoshop (phần mềm chỉnh sửa ảnh) thì khó có ảnh xấu, chỉ có tay nghề kém mới làm nó thành khó coi. Phải tới tận nơi để biết… Bỏ lại hết mọi bận bịu lên đường.
Đến Mũi Né đúng hôm biển động vì xém bão ngoài Bắc. Mưa rả rích. Lại vào cuối chiều nên khá thê lương. Nước biển không xanh như ở Nha Trang. Bọt đặc lại như hớt trên nồi nước dùng đang sôi. Đùa bảo biển giống người đang lên cơn động kinh sùi bọt mép. Bạn cười nắc nẻ chê mình nói ghê ghê. Nhưng nhìn đám bọt tấp bờ, dính bệt vào cát không dám thò chân xuống. Loanh quanh chụp ảnh. Mà cũng rất khó có ảnh đẹp khi màu trời xam xám đang trút mưa rơi. Dọc bãi biển resort vắng hoang không bóng người. Chỉ có biển ầm ào réo.
Cả Mũi Né chỉ có một đường Nguyễn Đình Chiểu chạy dọc ven biển. Các khách sạn, resort đeo bám vào đó đều khá đẹp và lịch sự. Còn bên kia đường hầu hết hàng quán. Cái này ăn đứt dịch vụ ngoài Bắc. Người bán hàng không chèo kéo quá đáng, không bực bội nếu bạn không mua hay dùng dịch vụ của họ. Thản nhiên bán hàng để khách được thản nhiên lựa chọn và thăm thú.
Hầu như hàng hóa chủ yếu phục vụ cho khách nước ngoài. Cũng phải thôi. Vùng biển phía
![]() |
Có vài người Nga tới Mũi Né lập nghiệp, sống vui vẻ, đầy đủ. Nhìn Philip cười và đón khách thì mình tin sự vui vẻ đó là rất thật. Vợ và hai con nhỏ cũng ở Mũi Né. Anh chàng có một Spa nho nhỏ cùng chung với một người Việt để kinh doanh. Một vài cửa hàng, khách sạn cũng của người nước ngoài làm chủ. Không lẽ đặt tên phố Liên Hiệp Quốc? Có thể sự đa sắc tộc đã đem lại phong cách kiến thúc, văn hóa kinh doanh của Mũi Né nên thấy dễ thương, dễ mến, dễ gần?
Hỏi xuất xứ tên Mũi Né thì cả hướng dẫn viên du lịch bất đắc dĩ là chỗ thân quen và anh ngư dân bỏ nghề làm du lịch đều không biết. Cũng mơ hồ đoán ra. Nhưng cứ tra wikipedia để tường tận. Tên gọi Mũi Né có hai truyền thuyết, một từ việc ngư dân đánh cá, mỗi khi đi biển gặp bão, thường đến đây nương náu. "Mũi" là cái mũi đất đưa ra biển; "Né" nghĩa là né tránh.
Còn truyền thuyết thứ hai nói rằng, tên này là tên công chúa út của vua Chăm - công chúa Chuột. Tương truyền vùng đất này của người Chăm xưa kia lau sậy mọc um tùm. Công chúa Chăm năm 16 tuổi mắc bệnh nan y, dựng miếu Am để tu tại Hòn Rơm. Từ đó lấy biệt danh là bà Nà Né. Lâu dần người dân đọc trại chữ Nà Né thành Mũi Né. Dù xuất phát từ giả thuyết nào thì nơi đây luôn vảng vất bóng hình cổ nhân và tiếng vọng quá khứ dội về.
Mũi Né đẹp. Đủ đẹp cho đam mê. Đủ ồn ào cho vui vẻ. Đủ hoang sơ cho khám phá. Đủ tĩnh lặng cho thưởng thức. Đủ hiền lành cho yêu thương. Đủ thật thà cho lòng tin. Đủ quá khứ cho trầm ngâm, mặc tưởng. Đủ kỷ niệm cho thương nhớ…Và ngổn ngang buồn khi nhìn ra trùng khơi…
Hăm hở lên đường khám phá vùng đất dễ gây nghiện…
Sáng hôm đó trời không mưa, không nắng, mát dịu do ảnh hưởng của bão. Thời tiết dịu dàng như mùa thu hiếm hoi nơi nổi tiếng có cái nắng đến lột da. Anh tài xế lái zeep vốn là ngư dân bỏ nghề làm du lịch sau một trận hút chết trên biển vì gặp bão. Tàu của anh tấp vào hòn đảo mãi tận Vũng Tàu mà sau này mới biết. Lúc đó sợ đảo nước lạ nên chỉ dám quanh quẩn ven bờ chờ chữa tàu để về quê. ở nhà tưởng anh đã bỏ xác trên biển.
Sau đận đó gia đình không cho đi biển mà bắt học lái xe. Giờ thì lái xe chở khách du lịch tham quan Mũi Né. Nhưng nhớ biển lắm. Con đường ven biển chạy từ Mũi Né đi Bàu Trắng đẹp tuyệt. Một bên là biển, bên kia là những triền cát miên man trải. Không gian như một tờ giấy mở rộng không cản tầm nhìn. Và gió. Từ biển vi vút thổi vào mang mùi mặn lẫn trong mùi cá, mực tanh nồng. Chỉ ngửi thôi cũng chặt dạ mà không cần ăn.
Bàu Trắng hiện ra giữa không gian còn hoang vu, sơ sài. Cát trải dài miên man như những cặp vú thiếu nữ rủ nhau nằm phơi nắng. Lúc lại thấy những đồi cát liên tiếp tựa eo thon đàn bà lúc nằm nghiêng. Rất thật và mong manh đến nỗi đi trên đó chỉ sợ làm người ta đau. Lên Bàu là gió. Gió thổi tung cát vào mắt nếu không đeo kính. May hôm đó không nắng. Nếu có nắng chắc cát lóa đến bỏng mắt?
Mấy cậu bé 15, 16 tuổi lái xe đưa lên Bàu. Bỏ học kiếm tiền thế này không ít ở những nơi có du khách tới. Tụi nhỏ vui đùa với khách. Hồn nhiên và hài hước. Chắc bỏ kiếp ngư dân hay chăn trâu rồi… Liệu chúng có hồn nhiên mãi thế này hay có lúc khôn ngoan, lọc lõi với du khách khiến ta phải lảng tránh? Mặt trái của du lịch không bao giờ từ bỏ đeo bám không chỉ cuộc sống mà cả nhân cách con người ở những nơi vốn hẻo lánh.
Bàu Đỏ không mênh mông bằng Bàu Trắng. Nhưng màu đỏ của cát thật ấn tượng. Trong hoàng hôn màu đỏ rực như máu tứa. Vì gần quốc lộ nên ở Bàu Đỏ hay có người bán hàng ngồi mời chào khách. Toàn là đàn bà, con trẻ đen nhẻm, gầy guộc bươn chải kiếm tiền bằng sản vật sau những chuyến ra khơi. Người vui chơi hưởng thụ, người lầm lũi kiếm sống… Sự tương phản làm nên muôn mặt đời sống. Tự nhiên thấy buồn, hết muốn chụp ảnh hay leo lên đồi cát mà chiêm ngưỡng vẻ hùng vĩ của cát.
Rồi bạn rủ đi coi hải đăng Kê Gà bằng xe máy. Hơn 50 cây số. Đoạn đường từ Mũi Né về thành phố Phan Thiết khá đẹp vì đường còn mới, dễ đi và lượn ven biển. Qua thành phố xe du lịch tấp nập đổ về Mũi Né vào cuối tuần. Nhưng khi bắt vào con đường nhỏ lượn mềm ven bờ Hàm Tiến thì biển lại trải ra mênh mông ngay sát sườn. Rất ít xe cộ và người. Anh bạn lái xe như đua công thức I. Rất đã.
Gần 20km đường ven biển. Đẹp. Vẻ đẹp còn tương đối yên lành. Cái không thích nhất là quá nhiều resort chạy dọc ven biển dù rất đẹp. Những tham lam của con người tận thu vẻ đẹp hoang vắng của bờ biển nơi đây làm mất sự tĩnh lặng của không gian khá biệt lập nơi này. Cuối con đường đó nơi mọi người muốn đến chính là hải đăng Kê Gà (Hàm Thuận
Theo lịch sử hàng hải, mũi Kê Gà được coi là một vị trí cực kỳ hiểm yếu của vùng biển từ Phan Rang đi Vũng Tàu. Từ lâu đã có nhiều thuyền buôn qua lại nơi đây và bị đắm do không xác định được tọa độ. Để đáp ứng nhu cầu vận tải của quân đội Pháp cũng như tàu buôn của nước ngoài, người Pháp đã xây dựng hải đăng Kê Gà. Để lên được ngọn hải đăng phải đi 184 bậc thang xoáy ốc bằng thép.
Hiện hải đăng Kê Gà là ngọn hải đăng cao và cổ xưa nhất Việt
Chợt nhận ra sao ngồi trước biển vẫn buồn, lòng nặng trĩu với rất thật những gì quanh ta. Người Việt mình lâu rồi gắn với biển để mưu sinh và lãng mạn vì biển quê mình đẹp lắm, dài lắm, lớn lắm. Những làng chài dù nghèo nhưng chưa bao giờ ngư dân đánh đổi bám biển để vào đất liền tránh bão và bán buôn làm giàu. Ngày ngày họ ra khơi nhặt từng con cá, con mực, con tôm để sống và giữ biển. Thuyền nhỏ đánh bắt gần bờ. Thuyền lớn xa khơi theo luồng lạch con nước và dòng cá mà đi. Biển Đông tuy rất lớn mà thật gần với người dân. Nhìn chợ cá lúc bình minh thương công sức ngư dân nghèo bỏ đất bám biển nhọc nhằn thế nào…Cá cơm nhỏ xíu. Ghẹ nhỏ, cá nát chỉ để cho heo ăn…Khơi khơi quanh bờ có vậy.
Một số ngư dân bỏ biển làm du lịch là thế. Người ta lái xe chở khách tham quan, mở nhà hàng, trẻ con cho thuê đồ trượt cát, bán cá khô cho khách lên Bàu Trắng, Bàu Đỏ…Nhưng nếu bắt chuyện về biển là hào hứng lắm. Anh chàng lái xe zeep hỏi chuyện tấm bản đồ cổ của Trung Quốc vừa tìm thấy không có Hoàng Sa-Trường Sa, giọng vui lắm. Còn bác tài lái ôtô thì biết tin Trung Quốc xua 23.000 tàu thuyền ra biển. Nét mặt chợt ưu tư, giọng ngắc ngứ buồn… Dường như thân xác này của họ dùng để kiếm miếng ăn, còn tâm hồn thì vĩnh viễn dành cho biển… Liệu có khi nào biển Đông sẽ mất vì lòng tham của con người?
![]() |
| Người dân Mũi Né – Phan Thiết. |
Chiều tối bạn không báo trước bỗng mang xe máy đến chở lên tháp Chăm Phố hài (Posahnư). Đó là một nhóm di tích đền tháp Chàm còn sót lại của Vương quốc Chămpa xưa, nằm trên đồi Bà Nài (thuộc phường Phú Hài, cách trung tâm thành phố Phan Thiết 7 km). Khoảng cuối TK8 đầu TK9, người Chăm xây dựng nhóm đền tháp này để thờ vị thần Shiva - một trong những vị thần ấn giáo được sùng kính. Nhóm tháp này có phong cách kiến trúc Hòa Lai - một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Chămpa.
Tháp không lớn nhưng chắt lọc những tinh hoa kiến trúc và nghệ thuật trang trí của người Chăm. Sang TK15, người Chăm xây thêm một số đền thờ với kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Poshanư - con vua Para Chanh. Bà là người có tài đức và phép ứng xử nên được người Chăm đương thời yêu quý. Giờ không biết linh hồn bà đã về sông Hằng thiêng liêng nương tựa hay còn trú ngụ ở toà tháp trầm tư mặc tưởng bên bờ biển vì quá yêu mảnh đất đẹp đẽ này?
Đứng cạnh tòa tháp nhìn xuống là eo biển lượn vòng, ôm lấy thành phố Phan Thiết bắt đầu rực đèn đêm. Có chút gì rờn rợn, lành lạnh khi đêm sồng sộc trùm lên hai tòa tháp đơn độc trong bóng tối. Yên tĩnh như nghe được tiếng thở dài của những âm hồn chắc còn luẩn quẩn quanh đây chưa siêu sanh được…
Miên man đêm xuống
Chỉ thêm vài bước đi từ Tháp Chăm là lên đỉnh núi có Lầu ông Hoàng. Cũng chỉ còn lại một trụ thẳng đứng trơ trọi giữa hoang tàn. Chuyện kể rằng, năm 1911, Công tước De Montpensier qua Việt
Tòa biệt thự được khởi công xây dựng ngày 21/2/1911 với 13 phòng rộng cùng nhiều tiện nghi như máy phát điện, bể chứa nước có thể dùng cả năm. Khi ấy biệt thự được xem là công trình hiện đại nhất Bình Thuận. Người dân thấy biệt thự quá đẹp nên gọi là Lầu ông Hoàng. Năm 1917, Công tước De Montpensier bán lại biệt thự cho một chủ khách sạn người Pháp tên là Prasetts. Sau này, vua Bảo Đại mới mua lại. Từ đỉnh núi Lầu ông Hoàng, mắt tung tẩy nhìn khắp hướng, nhất là thành phố Phan Thiết ngay dưới chân núi. Giờ thì “nền cũ lâu đài bóng tịch dương” trông thảm lắm. Cố mà tưởng tượng một thời hoa lệ của biệt thự này khi còn dập dìu tài tử giai nhân tới đây. Liệu hồn họ có lưu luyến mà ở lại ngọn núi u tịch này mỗi khi đêm xuống?
Và nói đến Lầu ông Hoàng không thể quên thi sỹ tài hoa bạc mệnh Hàn Mặc Tử và nữ sỹ Mông Cầm. Tương truyền Hàn Mặc Tử đã phóng bút tích của mình lên tấm bia đá tại Lầu ông Hoàng, nhưng giờ di tích đó chỉ còn là đống gạch vụn. Câu chuyện tình ngắn ngủi của đôi trai tài, gái sắc thủa ấy gắn với Lầu Trăng thơ mộng mà ai nghe cũng ngậm ngùi.
Khoảng năm 1934, Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Sài Gòn làm báo. Khi ấy cô nữ sinh Huỳnh Thị Nghệ 16 tuổi đang học école des pleins Dexercies ở Phan Thiết, thường gửi thơ vào Sài Gòn đăng với bút danh Mộng Cầm. Hàn Mặc Tử thấy thơ Mộng Cầm hay nên làm quen. Từ đó họ quen nhau, rồi yêu nhau. Cứ chiều thứ 7, Hàn Mặc Tử đi xe lửa ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Họ đưa nhau đến ngoạn cảnh Lầu ông Hoàng cùng ngắm trăng, xướng họa. Hàn thi sỹ ví mình như chim Phượng bay qua cung trời Đao Lợi rớt xuống một cù lao để đi tìm thục nữ… “Ta la thang tìm tới chốn Lầu Trăng/ Lầu ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang/ Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết”.
Sau này khi Hàn Mặc Tử phát bệnh phong thì mối tình của họ tan vỡ: “Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi/ Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi/ Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ/ Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!/ Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng/ Ta vãi vung thơ lên tận sông Hằng,/ Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết/ Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!/ Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu/ Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư”.
Và giờ Hàn thi sĩ về nằm bên Ghềnh Ráng quê ông ở Qui Nhơn. Không biết Hàn thi sỹ và Nường Mộng Cầm từng hẹn hò nhau ở kiếp sau có thường về Lầu Trăng giờ đổ nát để cùng xướng họa làm thơ như kiếp trước đã từng? Có lẽ thế mà dù hoang lạnh, thê lương, điêu tàn, Lầu ông Hoàng vẫn khiến những người yêu thơ, yêu Hàn, thương cảm bi kịch của ông ngậm ngùi ao ước muốn đến chốn này…
Và nếu có ai hát cho bạn nghe bài “Hàn Mặc Tử” của Trần Thiện Thanh nữa thì cảm xúc gần như trọn vẹn… “đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa/ Lầu ông Hoàng đó thuở nào trăng/ Hàn Mặc Tử đã qua/ ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng/ Tiếng chim kêu đau thương, như nức nở dưới trời sương/ Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người tìm về những đêm buồn/ đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến… Hàn Mạc Tử xuôi về quê cũ, giấu thân nơi nhà hoang/ Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi/ Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi/ Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi/ Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân chàng đến/ Người xưa nào biết, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa/ Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm nghe trăng vỡ/ Khóc thương thân bơ vơ, cho đến một buổi chiều kia/ Trời đất như điên cuồng khi hồn phách vút lên cao/ Mặc Tử nay còn đâu?”. Câu chuyện tình của họ giờ đã trở thành máu thịt của mảnh đất này, trở thành lịch sử mà ai qua cũng muốn nghe, muốn biết nếu đã đến.
Và dù đứng ở hải đăng Kê Gà hay trên đồi Bà Nài có Lầu ông Hoàng thì đều phóng mắt ra biển Đông. Để lo âu, phấp phỏng, hy vọng và khao khát…
Biển đang động trong mùa bão và biển rất buồn.
Mắt ta đặt vào đâu để kẻ đường biên hải cho Tổ quốc giữa mênh mang đại dương?
Ra biển vẫn rất buồn là vì lẽ. Dù biển đẹp đến nao lòng. Lãng mạn đến ngẩn ngơ. Vĩ đại thế mà mong manh dường nào…
Biển buồn ơi…


