Văn chương và sự kiệt quệ của tính phổ quát
Còn nhớ, tại lễ trao giải Nobel Văn học dành cho nữ thi sĩ người Mỹ Louise Gluck (2020) Viện Hàn lâm Thụy Điển đã nhấn mạnh, đó là: "Một giọng thơ không lẫn vào đâu được, với vẻ đẹp nghiêm khắc khiến sự tồn sinh của cá nhân trở nên phổ quát" ("Nhà thơ Louise Gluck: Một vẻ đẹp đau đời khắc khổ", http://vanvn.vn).
Nhận định này dường như lưu tâm nhiều hơn đến tính phổ quát như là thành tựu quan trọng, nhưng có lẽ cũng cần phải đặc biệt chú ý đến "vẻ đẹp nghiêm khắc" và "sự tồn sinh của cá nhân" vốn là điều kiện để tính phổ quát không trở thành phạm trù chung chung, rỗng nghĩa.
Phổ quát là một khái niệm hướng đến những giá trị, thuộc tính chung, có thể đúng/ áp dụng cho đa số, vượt lên trên những điều kiện riêng biệt thuộc về cá nhân hay các cộng đồng riêng lẻ. Trên bình diện triết học, cặp phạm trù chung - riêng vẫn được xem xét nhằm chỉ ra mối quan hệ biện chứng, cái chung nghèo nàn hơn cái riêng do nó phản ánh những đặc điểm bao quát nhất cho nhiều đối tượng; còn cái riêng sâu sắc, giàu có hơn cái chung do nó vừa có những khía cạnh đáp ứng cái chung, vừa có những nét riêng biệt chỉ tồn tại trong điều kiện - phạm vi cụ thể của đối tượng.
Trong văn hóa, vấn đề bản sắc, cá tính, nét riêng độc đáo trở thành nền tảng để kiến tạo cơ sở tồn tại của văn hóa. Không phải ngẫu nhiên, có ý kiến cho rằng, văn hóa chỉ tồn tại khi có từ hai nền văn hóa trở lên. Nghĩa là, phải có sự khác biệt, mới có sự phân định - xác lập văn hóa. Trong xã hội, sự khác biệt của mỗi cá thể, mỗi cộng đồng, làm nên diện mạo của chủ thể trong sự tương sánh với các cá thể - cộng đồng khác. Trong văn chương, điều đó thiết nghĩ cũng không phải là ngoại lệ.
Tính phổ quát nếu bị lạm dụng một cách duy ý chí sẽ ngày càng trở nên kiệt quệ và đi đến sự rỗng nghĩa, khi nó chỉ đơn thuần thể hiện sự chung chung, không gắn với một điều kiện cụ thể nào đó. Như trường hợp của Louise Gluck, phải cần có "vẻ đẹp nghiêm khắc" của "sự tồn sinh cá nhân", cái phổ quát mới thực sự có ý nghĩa. Cũng như vậy, khi nói về chiến tranh, dịch bệnh, cái chết, sự bất an hay các tình thế ngặt nghèo của hiện hữu con người, nếu rời xa những kinh nghiệm cá biệt, các biểu đạt phổ quát này sẽ hoàn toàn mất đi chiều sâu của sự tinh tế, dẫn đến mơ hồ thiếu thuyết phục.
Một khái quát về chiến tranh, như là biến cố khủng khiếp, kinh hoàng của lịch sử loài người, sẽ không chạm đến lương tri nhân loại yêu chuộng hòa bình, nếu thiếu đi những bi kịch cụ thể. Làm sao ta có thể đánh đồng cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc với cuộc chiến xâm lược? Cái chết của kẻ gieo rắc tội ác chiến tranh với sự hy sinh của người bảo vệ hòa bình làm sao có thể quy về đơn giản chỉ là "những cái chết trong chiến tranh" được? Những tác phẩm văn học của Việt Nam, viết về chiến tranh, đã khu biệt hóa phạm trù chung "chiến tranh" vào số phận của dân tộc trong tình huống buộc phải đối đầu với kẻ thù cướp nước và gieo rắc tội ác lên đời sống nhân dân.
Đó là lựa chọn "cá biệt" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên" (Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến).
Phê phán chiến tranh như một sự kiện phổ quát với tính bạo lực - phi nhân của nó mà bỏ qua những tình huống cụ thể, thực chất là một sự phê phán cảm tính, nếu không muốn nói rằng hoàn toàn thiếu vắng sự suy tư nghiêm túc (vẻ đẹp nghiêm khắc) trước thân phận con người, thân phận dân tộc trong thử thách máu lửa của lịch sử.
Thuở xưa, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi viết "Bình Ngô đại cáo" cũng đã nêu cao chân lý - nguyên lý cá biệt ấy của dân tộc Đại Việt: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo". Muốn yên dân phải trừ bạo, và "điếu phạt" chính là thực hành một yếu tố bất khả kháng trong tổng thành của lý tưởng nhân nghĩa.
Trong truyện ngắn "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành, cụ Mết - đại diện cho cộng đồng làng Xô Man đã nói lên chân lý của việc cần phải tiến hành bạo lực cách mạng: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Lẽ nào dân làng Xô Man không yêu chuộng hòa bình, không quý trọng sự sống? Nhưng, điều kiện cá biệt ở đây chính là: muốn có hòa bình, phải chuẩn bị chiến tranh. Hòa bình không thể có, không thể giữ, trước lòng tham, nanh vuốt của cái ác. Làm sao có thể thương lượng với khẩu súng, nếu nó chỉ một mực nhăm nhăm nhả đạn vào con người?
Svetlana Alexievich nhà văn đoạt giải Nobel (2015) trong diễn từ nhận giải tại Stockholm (Thụy Điển) đã dẫn lời Theodor Adorno rằng: "Sau Auschwitz mà còn làm thơ là một sự man rợ" (Auschwitz là trại tập trung - diệt chủng của Phát xít Đức). Vậy, người ta sẽ làm gì để ngăn chặn tội ác, chỉ bằng những trang sách ư? Hitler cũng là kẻ đọc sách.
Trần Quốc Tuấn trong "Hịch tướng sĩ" đã nêu rõ: "Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh… tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ mẹ cha các ngươi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu". Đó là sự lựa chọn dựa trên điều hơn lẽ thiệt cụ thể của dân tộc trước họa xâm lăng, đâu phải là ý chí bạo tàn hiếu chiến của kẻ làm tướng.

Nhân loại từ trong lịch sử đến giờ, có những câu chuyện chung, mà ta có thể gọi là phổ quát. Sự sống, cái chết, các giá trị nhân văn giúp con người NGƯỜI hơn (tình yêu thương, cái đẹp, cái cao cả), nỗi cô đơn, bất an và những đe dọa đến tồn tại con người… Xét ra, trên yếu tính của sự phổ quát, những câu chuyện chung không nhiều. Cái riêng - khác - cá biệt làm cho cái chung có sức sống, và thường xuyên bổ sung vào cái chung những khía cạnh phong phú, đa dạng hơn.
Rõ ràng, cái ác là một phạm trù chung thuộc về con-người, nhưng cái ác trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương phải được đặt vào các bối cảnh cụ thể của cuộc chiến tranh, của những xung đột văn hóa - xã hội Việt Nam, thậm chí cụ thể hơn nữa là không gian bản quán của tác giả (như một tình huống, một phụ gia làm bật nổi tư tưởng về bạo lực như là căn tính của con người). Nguyễn Bình Phương không thể triển hoạt tư tưởng cái ác như là căn tính khi chỉ nói chung chung hoặc bứng sang một cộng đồng văn hóa - xã hội khác mà ông không có quan sát, trải nghiệm, thấm thía một cách cụ thể.
Tương tự như vậy, trong thơ Trương Đăng Dung, người đọc nhận ra nhiều phạm trù phổ quát gắn với nhân loại nói chung. Nhưng, nỗi bất an của tồn tại người trong nhiều tác phẩm của ông phải được kích hoạt từ chính cuộc đời, thân phận một người Việt Nam, sinh ra ở một vùng trũng về văn minh, trong một thời đại đầy khắc nghiệt của chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo… "Những kỷ niệm tưởng tượng", "Trên bàn mổ", "Anh không thấy thời gian trôi", "Ba anh em"… hoàn toàn gắn với những trải nghiệm cá nhân một cách sâu sắc.
Từ "sự tồn sinh cá nhân" ấy, qua những ưu tư nghiêm khắc (đến dằn vặt, khắc khoải, thậm chí lâm vào những cú sốc tinh thần nghiêm trọng) cái phổ quát mới có da thịt và linh hồn để không trở nên mơ hồ, rỗng nghĩa: "Các em đột ngột ra đi/ bỏ lại những lỗi lầm, bất hạnh/ những nỗ lực dở dang// Chiều chiều mẹ vẫn ngồi trước cửa/ mắt xa xăm nhìn về hướng Tây/ đêm đêm gió đến mang đi những tiếng thở dài/ mùi trầu cay hiu hắt/ gần một trăm năm cuộc đời của mẹ// Anh tiếp tục đi lại trên mặt đất này/ thấy những điều các em chưa kịp thấy/ hiểu những điều các em chưa kịp hiểu/ đau những điều các em không còn có thể đau/ nỗi đọa đày nơi cõi sống/ như một chịu đựng dấn thân" (Ba anh em).
Sống như một chịu đựng dấn thân, ở đây là phạm trù có tính phổ quát, mang tầm vóc nhân loại. Nhưng nếu chỉ chế tác ngôn ngữ nhằm biện bày cho khái niệm ấy, tư tưởng sẽ trở nên sáo rỗng - vì các triết gia hiện sinh đã nói mãi rồi. Trương Đăng Dung phải đi từ bi kịch cá nhân - gia đình, từ những "đứa em" thực hữu và câu chuyện đau buồn đến cắt xé lương tâm, mới nghiệm ra lẽ sống là sự chịu đựng - dấn thân ấy.
Câu chuyện về tính phổ quát và tính đặc thù vẫn luôn đan cài qua lại nhằm soi xét lẫn nhau, tránh bên nào rơi vào cực đoan, duy ý chí. Cái phổ quát, nếu không tựa vào cái riêng - đặc thù sẽ trở nên trống rỗng dần về nghĩa. Ngược lại, nếu chỉ chăm chú đến cái riêng - khác - cá biệt, lại dễ rơi vào trạng thái khép kín, tự trị và trở nên xa lạ với tha nhân - cộng đồng. Văn chương nghệ thuật cũng vậy, muốn tiến đến những giá trị phổ quát, trước hết phải làm giàu, làm sắc nét, làm độc đáo, đậm đà cái riêng của mình - như là căn cốt, sau đó mới có thể hy vọng cái riêng ấy lấp lánh sáng lên những giá trị mà cộng đồng nhân loại có thể đến để soi vào, nhằm thấm thía câu chuyện của riêng họ.