Câu lục phá cách trong “Truyện Kiều”
Cùng là thơ lục bát, nhưng có bài nghe êm dịu, có bài lại trúc trắc, khó đọc. Nguyên nhân ngoài vần ra, còn do điệu, tức là thanh trắc và thanh bằng của các chữ trong câu quyết định điều đó.
Chúng ta biết rằng, với một câu thơ lục bát chuẩn thì chữ thứ 2 của câu lục cũng như của câu bát phải là thanh bằng, chữ thứ tư của mỗi câu phải là thanh trắc(*). Trong 1.627 câu bát của “Truyện Kiều”, câu nào cũng chuẩn, nghĩa là mọi câu đều có chữ thứ hai thanh bằng, chữ thứ tư thanh trắc. Nhưng trong 1.627 câu lục thì không như thế, nghĩa là có một số câu có chữ thứ hai thanh trắc, hoặc chữ thứ tư thanh bằng. Ta tạm gọi những câu lục như vậy là “câu lục lệch chuẩn” hoặc “Câu lục phá cách”. Trước hết ta hãy thống kê những câu lục ấy:
- Mai cốt cách, tuyết tinh thần
- Đau đớn thay phận đàn bà
- Nền phú hậu, bậc tài danh
- Người quốc sắc, kẻ thiên tài
- Khi tựa gối, khi cúi đầu
- Người nách thước, kẻ tay đao
- Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
- Duyên hội ngộ, đức cù lao
- Nước vỏ lựu, máu mào gà
- Tin nhạn vẩn, lá thư bài
- Khi khóe hạnh, khi nét ngài
- Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
- Khi gió gác, khi trăng sân
- Khi hương sớm, khi trà trưa
- Khi chè chén, khi thuốc thang
- Sao chẳng biết ý tứ gì
- Có cổ thụ, có sơn hồ
- Khi Vô Tích, khi Lâm Tri
- Mụ quản gia, vãi Giác Duyên
- Hết nạn nọ, đến nạn kia
- Hại một người, cứu muôn người
- Người một nơi, hỏi một nơi
- Người yểu điệu, kẻ văn chương
- Tưởng bây giờ là bao giờ
- Thêm nến giá, nối hương bình
- Khi chén rượu, khi cuộc cờ.
Như vậy, ta tính được 26 câu lục lệch chuẩn, chiếm tỷ lệ chưa đến 1,6% tổng số câu lục. Trong 26 câu này thì có đến 21 câu có chữ thứ hai mang thanh trắc, và chỉ 7 câu có chữ thứ tư mang thanh bằng. Với những câu lục bát chuẩn, khi không thất vận, bao giờ nghe cũng êm tai; ngược lại với trắc bằng lệch chuẩn, ngay cả khi chuẩn vần, thường trúc trắc, khó đọc. Thế nhưng khi đọc “Truyện Kiều”, không câu nào ta có cảm giác trúc trắc, ngang ngang, ngay cả những câu lục lệch chuẩn. Nguyên nhân vì sao?
Ta biết rằng thơ lục bát thường ngắt nhịp từng cặp hai chữ một:
Trăm năm/ trong cõi/ người ta (2/2/2)
Chữ tài/ chữ mệnh/ khéo là/ ghét nhau (2/2/2/2)
Phần lớn những câu lục bát trong “Truyện Kiều” cũng được ngắt nhịp như vậy. Thế nhưng ở 26 câu lục lệch chuẩn trên kia, không câu nào Nguyễn Du ngắt theo nhịp 2/2/2 quen thuộc, mà ngắt theo nhịp 3/3. Như vậy, chính nhịp 3/3 trong câu lục có sức mạnh làm tiêu tan sự trúc trắc, cho phép một câu lục lệch chuẩn làm thành viên một cặp lục bát êm dịu, mượt mà. Phải chăng đây cũng là một “bí quyết” mà những người làm thơ lục bát chúng ta cần tham khảo?
Đọc lại 26 câu lục trên kia, ta thấy rằng, chúng không chỉ được ngắt theo nhịp 3/3; mà chỉ trừ ba câu: “Đau đớn thay phận đàn bà”, “Sao chẳng biết ý tứ gì”, “Người một nơi, hỏi một nơi”, còn 23 câu lục còn lại, mỗi câu được chia ra hai phần, tạo thành một cặp tiểu đối 3-3 hoàn chỉnh, và khi đó đọc lên nghe thuận tai hơn ba câu trên kia dù ngắt nhịp 3/3 nhưng không tạo thành tiểu đối.
Như trên đã nói, lục bát chuẩn thường có âm điệu du dương, lên bổng xuống trầm theo quy luật. Tuy nhiên nó cũng có “tác dụng phụ” là dẫn đến sự đơn điệu, nhất là đối với những bài thơ dài hay những truyện thơ hàng ngàn câu. Có đôi khi những câu lệch chuẩn giống như con ngựa bất kham dễ quật ngã những nài ngựa. trình độ hạn chế, nhưng với những nài ngựa giỏi thì tìm được cái hay ở chúng. Với “đàn ngựa ngôn ngữ” thì Nguyễn Du là nài ngựa kỳ tài, có phép riêng để sử dụng những con ngựa lệch chuẩn, để cho lục bát trong “Truyện Kiều” giàu âm điệu, tiết tấu, tránh được sự đơn điệu thường tình.
Cũng cần lưu ý rằng, khi không thể ngắt nhịp 3/3 thì đại thi hào tìm cách hoán vị các từ, chứ không chịu để cho câu lục lệch chuẩn xuất hiện. Ví dụ như khi nói về Hoạn Thư:
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, chúng ta thường nói nết “ăn ở”, chứ không mấy khi nói “ở ăn”. Nguyễn Du thừa biết điều ấy, nhưng nếu dùng “ăn ở” thì chữ thứ hai câu lục mang thanh trắc: “Ăn ở thì nết cũng hay”, không thể ngắt theo nhịp 3/3, thế là “con ngựa bất kham” này không có “chiêu ngắt nhịp” để trị, không thể dùng được, nên đành phải hoán vị hai chữ đầu câu để đưa nó về một câu lục chuẩn.
Để giúp các bạn dễ nhớ 26 câu lục trên, tôi ghép chúng lại trong một bài lục bát như sau:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, phong trần khác xa
Đau đớn thay phận đàn bà
Sống làm vợ khắp người ta, tội tình
Nền phú hậu, bậc tài danh
Tình đầu ngắn ngủi sau dành phần ai
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Vô duyên, chỉ để vắn dài dòng châu
Khi tựa gối, khi cúi đầu
Bên nhau ai biết về sau thế nào
Người nách thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa ào ào đến ngay
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây
Chắt chiu bao thuở, một ngày sạch lau
Duyên hội ngộ, đức cù lao
Nhẹ tình, nặng hiếu lòng đau biệt nhà
Nước vỏ lựu, máu mào gà
Tính toan của Mã nghe mà sởn gai
Tin nhạn vẩn, lá thư bài
Khi khóe hạnh, khi nét ngài, mà kinh!
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình, chiếc thân
Khi gió gác, khi trăng sân
Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ
Khi hương sớm, khi trà trưa
Bàn vây điểm nước, vần thơ họa đàn
Khi chè chén, khi thuốc thang
Không hay địa ngục, thiên đàng là chi
Sao chẳng biết ý tứ gì
Cho chàng buồn bã tội vì Hoa Nô
Có cổ thụ, có sơn hồ
Đêm Quan Âm Các lần mò trốn đi
Khi Vô Tích, khi Lâm Tri
Thương thay thân gái chuyển di bao miền
Mụ quản gia, vãi Giác Duyên
Mấy lần gặp gỡ, mấy phen chia lìa
Hết nạn nọ, đến nạn kia
Biết bao giờ mới yên bề thảnh thơi?
Hại một người, cứu muôn người
Người một nơi, hỏi một nơi, lầm đường
Người yểu điệu, kẻ văn chương
Đoàn viên một cuộc tình thương vô bờ
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Tưởng bây giờ là bao giờ, nét xinh
Thêm nến giá, nối hương bình
Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan…
Dùng bao câu chữ làng nhàng
Chỉ mong chuyên chở hạt vàng văn chương!
---------
(*): Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du không sử dụng thể lục bát gieo vần ở chữ thứ tư câu bát, nên ở đây không bàn về thể thơ đó.