Cất cánh từ đường biên tưởng tượng
Nguyễn Nhật Huy đã xuất bản hai tập thơ: "Sân bay" (NXB Đại học Thái Nguyên, 2021) và "Thành phố" (NXB Hội Nhà văn, 2024). Thơ anh cho độc giả hình dung về những chuyến bay cất cánh và hạ cánh xuống những đường biên tưởng tượng, giữa thực và ảo, mơ hồ và rõ nét, liên tục và đứt gãy, lẫn lộn và tường minh, khoảnh khắc và vô tận...
"Anh có một điểm đợi trên những đám mây".
Nguyễn Nhật Huy
Nguyễn Nhật Huy đã xuất bản hai tập thơ: "Sân bay" (NXB Đại học Thái Nguyên, 2021) và "Thành phố" (NXB Hội Nhà văn, 2024). Thơ anh cho độc giả hình dung về những chuyến bay cất cánh và hạ cánh xuống những đường biên tưởng tượng, giữa thực và ảo, mơ hồ và rõ nét, liên tục và đứt gãy, lẫn lộn và tường minh, khoảnh khắc và vô tận... Những đường biên ấy hé lộ không gian thơ, cốt cách, nội lực, căn tính của kẻ sáng tạo. Trong hai tập thơ "Sân bay" và "Thành phố", tác giả đã chọn lựa đường biên làm nơi khởi điểm và nơi kết thúc những chuyến bay, hành trình của mình.
"Anh bay qua những đường biên tưởng tượng/ Nơi thù ghét/ Nơi thân thuộc/ Nơi họ định nghĩa anh/ cho đến khi bay qua những đám mây" (Sân bay).
Đường biên trong thơ Nguyễn Nhật Huy khơi lộ vẻ đẹp, những ảo diệu của cõi nhân sinh trong huyền nhiệm của vũ trụ. Anh từng ngỡ ngàng khi biết "linh hồn mình từ lâu nằm sau vỏ nhựa" của chiếc điện thoại, vốn là vật vô tri vô giác. Anh nhận ra điều ảo diệu ấy vì biết phương tiện dùng để liên lạc kia đã ấp iu, chi chút những con chữ của anh đến khi chúng biết thao thức, bật dậy: "cựa quậy thành từng chữ/ còn cơ thể mình thì đầy những vết bầm mã vạch" (Điện thoại). Hay, câu chuyện của anh về cái giếng khơi, mà từng bậc đá, vách sâu trong ấy bỗng hóa thành những nếp gấp của thời gian, hiển lộ từng vỉa tầng ký ức: "chuyện ông kể bờ giếng sâu hun hút phần đời/ những bậc đá lắc lơ gọi thăm thẳm trống chiêng ngày cũ" (Giếng)...
Đường biên trong thơ Nguyễn Nhật Huy cũng phong nhiêu như đời sống này, là không-thời-gian được xác định hay bất định, nơi nhà thơ có thể nhận biết, cảm nhận nó bằng trực giác, linh cảm. Những đường biên được đặt định cụ thể trong đó là hiện thực đa diện, thậm phồn của đời sống nhân sinh. "Những câu chuyện đã quên/ nhen dần bên bếp lửa" (Câu chuyện); "Mái nhà/ con thạch sùng thở sau kẽ gỗ/ quạnh quẽ bóng tre cựa mình" (Giếng); hay "Cơn đau vai sáng nay/ Có hơn một chút day dứt" (Lạ)...
Trong bài thơ “Câu chuyện”, hình ảnh những người đang trò chuyện được đặt bên cạnh hình ảnh thanh củi cháy là hai yếu tố rất hiện thực đời thường, nhưng hai hình ảnh này lại bắc cầu cho hàng loạt những hình ảnh khác từ một không gian siêu thực, kỳ ảo. Tác giả cho hai yếu tố từng tồn tại đơn lẻ, phân mảnh ấy liên kết thành một đời sống mới với nhiều ám ảnh, bất ngờ. Liên kết này lần lượt mở ra những chuyển dịch khác, tình huống khác, những đường biên khác nhau trong tưởng tượng của nhà thơ và người đọc. "Câu chuyện nổ tiếng củi sôi/ ai nhóm lửa cả cõi lòng chật chội/ cầu thang cúi đầu/ tựa vào bóng tối/ ném hạt đầu mùa trên một vốc mây trôi" (Câu chuyện).
Đường biên trong bài thơ "Tân Trúc" lại xác định cụ thể một tình huống khác. Ranh giới giữa bóng tối và khoảng sáng đã tạo ra những chuyển động song trùng từ trung tâm đến ngoại biên. Hình ảnh "con đom đóm đi lạc" như một mũi tên lửa xuyên thấu các chiều không gian xao động, khai mở một khoảng không mới, khác lạ. "Mình ngồi xếp lại những chiếc ghế/ Quanh một bóng tối chênh vênh/ Chỉ có con đom đóm đi lạc vào câu chuyện bên cửa sổ/ Vẫy vào ánh trăng bóng người" (Tân Trúc).
Hay, nhờ vệt sáng tia chớp trong bài thơ "Tiếng sấm", độc giả sẽ nhìn thấy "những đôi môi" chợt hiện rồi biến mất nơi đường biên. Sự vô lý mà hữu lý ấy mở ra khoảng trống vô tận từ khoảnh khắc xuất hiện tiếng sấm ban đầu. "Qua đường chớp lóe lên bất tận/ thấy mình rõ hơn trong khoảnh khắc sợ hãi/ những cơn giông chạy qua đời/ những đôi môi tan mất" (Tiếng sấm). Đôi khi trong một bài thơ, Nguyễn Nhật Huy lại sắp đặt những đường biên song song, tạo hiệu ứng dây chuyền, phản quang, những chuyển động kép từ một chủ thể. "Qua bầu trời/ Qua ý nghĩ của anh chật hẹp/ Trên cao/ Những cơn gió vẫn cuốn vào nhau" (Mỉm cười).
Bên cạnh không-thời-gian được xác định, những đường biên bất định, mơ hồ đã tạo ra nhiều trạng thái liên tưởng và cảm xúc, nó trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ Nguyễn Nhật Huy. Tính bất định tại những đường biên trong hai tập thơ cho ta thấy những diễn tiến nơi tâm hồn tác giả, có nghi hoặc và cả tin, bền chặt và rạn vỡ... "Phải chạy khỏi cái bóng của mình/ trong rất nhiều sắp đặt/ Đó là sự bủa vây của định nghĩa" (Suy tưởng)...
Cất cánh từ đường biên bất định, Nguyễn Nhật Huy thường vượt qua những tầng không gian miên mộng, ảo mờ... Chúng đột hiện trong tư duy và cảm xúc của nhà thơ, có thể lóe sáng từ quá khứ, từ một nơi quên lãng, hay đi qua những “vùng mù”, “vùng thăm thẳm”, “vùng tổ của thơ ca", mà thời khắc xa xăm ấy tác giả bài thơ cũng khó lý giải. Nhưng khi tứ thơ xuất hiện, mọi ảo diệu, thậm chí rối tung kia đã đồng hiện sáng rõ trong chuyến viễn du tuyệt đẹp của thơ. "Cái bóng/ vướng vào nhau/ trong những giây cạn kiệt/ Anh vắt một bóng/ sen tàn..." (Về không). Dường như sự bay trong những câu thơ trên đã lên đến đỉnh cao. Từ đây, người đọc được chiêm ngưỡng thêm những hình ảnh, biết thêm những dịch chuyển khác nữa trong chuyến bay bất định, phiêu du và tự do của Nguyễn Nhật Huy.
Nơi tạm dừng hay gọi bến đỗ của những chuyến bay trong thơ Nguyễn Nhật Huy đều là những điểm nhấn của đời sống đương đại, nơi mà tác giả gọi là "một thành thị để bơ vơ". Nỗi bơ vơ mà nhà thơ gọi tên chính là sự cô đơn trong chen chúc kiếp người; nhất là khi công nghệ phát triển thì sự cô đơn đến với con người càng nhanh chóng, càng dễ dàng hơn. "... chúng tôi/ vẫn chạy như những ngọn cỏ/ tìm sự sống phía chân trời" (Di cư).
Đường biên ở những nơi đô thị đã mang đến cái nhìn khác lạ về con người và cảnh vật, chúng hiện ra náo nức mà xa xót, cấp tập và ngăn cách, lam lũ với rất nhiều cảm thông... "Tôi cúi xuống một ngày biến mất/ Ngờ ngợ giọt mồ hôi chảy nhẹ giữa mình" (Chạy). Trong bối cảnh ấy, chỉ có tình yêu, lòng nhân ái mới là cứu cánh của con người, mới bảo vệ được cuộc sống tươi đẹp trên hành tinh này. "Những đồi cát chạy/ tan vỡ cùng những chiều gió cháy/ Khao khát thấm giọt người/ yêu thương nứt hằn mặt đất/ Những bàn tay mọc vào nhau/ giữ nụ hôn đừng chảy" (Tắt nắng).
Những câu thơ sắc gọn, tối giản của Nguyễn Nhật Huy luôn mang cho người đọc ấn tượng mạnh, ám ảnh khó quên. Các thi ảnh trong đó được kết cấu phân mảnh, liên kết xa và xuất hiện khá bất ngờ. Lối kiến tạo này cũng thử thách những ai viết về thơ anh, bởi khó nắm bắt được giữa cái thực và cái ảo, và, nếu chỉ trích dẫn vài câu thơ hoặc vài khổ thơ lại dễ làm vênh lệch ý của tác giả.
Nguyễn Nhật Huy cũng viết một số bài thơ theo hình thức truyền thống, nhưng cấu tứ hiện đại. Bài thơ dưới đây mang nhịp điệu một bài đồng dao. Đoạn trích này gợi cho ta nhớ tới những bài đồng dao ở miền Bắc như "Thả đỉa ba ba", "Chi chi chành chành"..., nhưng âm điệu trong "Mùa sen" của Nguyễn Nhật Huy vang vọng, hình ảnh “thổi vào giấc mộng” thật kỳ ảo, rất liêu trai... "Hương tỏa vào sông/ Mọc xanh mùa nước/ Em ngậm ngụm mưa/ Thổi vào giấc mộng" (Mùa sen).
Thể thơ lục bát cũng được Nguyễn Nhật Huy cách tân từ hình thức tới cấu tứ. Câu chữ trong từng cặp 6/8 được tác giả tung hứng điệu nghệ, dẫn dắt người đọc từ tâm thế chủ động sang bị động, chủ quan sang khách quan... Sự bất ngờ trong thể thơ này được thể hiện trong cách sắp đặt hình ảnh đa phương chiều, và, cùng với nhịp điệu trẻ trung, tác giả đã thổi vào nó luồng sinh khí mới, âm điệu mới. "Vẫn khô nứt cả trong mưa/ Giữa đường có một buổi trưa bật cười/ Giữa sông vớt lại mảnh trời/ Đã say mà đắm rồi rơi lại chìm/ gieo mầm rồi lại đi tìm/ yêu thương mọc tận cánh chim bay rồi" (Vẫn).
Thơ Nguyễn Nhật Huy khá đa dạng phong cách và âm điệu. Anh có những bài thơ ngắn thật đẹp, cảm xúc mạnh, gợi mở. Câu chữ trong mỗi bài căng tràn nhựa sống: "Cởi", "Họ", "Lạc", "Sầu riêng", "Vết cứa", "Đêm", "Tiếng chuông không bình yên"... "Bước vào phòng/ Cởi bộ da treo lên mắc/ Lặng lẽ nhìn cái tôi/ Vẻ đẹp không nhân danh gì cả" (Cởi)...
Nguyễn Nhật Huy sinh năm 1987 tại Thái Nguyên, giảng viên Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Hiện anh là nghiên cứu sinh ngành Văn hóa học tại Đài Loan (Trung Quốc).
Dù viết theo phong cách nào, thơ Nguyễn Nhật Huy luôn hé lộ cho ta mục đích và ý nghĩa của những cuộc khai phóng, những chuyến bay, viễn du và trở về đường biên – nơi kiến tạo không gian thơ khác biệt, nơi thiết lập phong cách, giọng nói đích thực của nhà thơ. Và cũng chính từ nơi những đường biên này, tác giả đang ấp ủ những dự phóng, tích tụ thêm năng lượng và dồn nén cảm xúc cho hành trình phía trước, hướng tới những đường bay khác, bến đỗ khác. "Trên cao/ Mặt trời vẫn dang tay rộng lắm" (Mặt trời).
Hải Phòng, 10/2024