Sự khác biệt của Thúc Sinh và Từ Hải đối với nàng Kiều
Thúc Sinh xuất thân từ dòng dõi Nho học ("cũng nòi thư hương") và kiêm cả việc buôn bán ("theo nghiên đường mở ngôi hàng Lâm Tri", câu 1278) nên đã lộ rõ bản chất giai tầng xã hội khác hẳn với Từ Hải - vốn giỏi võ nghệ, có khí phách ngang tàng của người anh hùng ("Đường đường một đấng anh hào/Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài").
Những nét riêng thể hiện rõ bản chất giai tầng xã hội của Thúc Sinh là ở câu hỏi của chàng Thúc với Thúy Kiều và ở cách tạo tình huống để chuộc nàng Kiều ra khỏi lầu xanh của mụ Tú Bà.
Câu hỏi: "Rằng sao nói lạ lùng thay/ Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?" xảy ra trong hoàn cảnh nào? Trong hoàn cảnh: mùa hè nàng Kiều tắm, Thúc Sinh thấy "Rõ ràng trong ngọc trắng ngà/ Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên". Chàng làm một bài thơ thể hiện cảm xúc của mình trước cảnh đó. Kiều trả lời ý là: "Hay hèn" gì thì cũng phải họa vần về bài thơ của chàng nhưng vì đang nỗi nhớ quê nên khất lại ("Hay hèn lẽ cũng nối điêu/ Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang/ Lòng còn gửi áng mây hàng/ Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay" - câu 1317- 1320)
Phải chăng câu hỏi của chàng Thúc là một câu hỏi thật lòng? - Không phải. Ta đã biết: Thúc Sinh đến với nàng Kiều có phải thời gian ngắn đâu, kéo dài từ mùa xuân tới mùa hè. Hai người đã "Nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng/ Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng". Họ đã gắn bó với nhau thắm thiết: "Một dây một buộc ai giằng cho ra". Rồi "Trước còn trăng gió sau ra đá vàng".
Cảnh Thúc Sinh gặp Kiều. |
Thúc Sinh say mê Kiều đến nỗi: "Trăm nghìn đổ một trận cười như không". Tất cả những điều kể trên thể hiện rõ: Thúc Sinh là khách làng chơi, Kiều là gái lầu xanh. Nếu Kiều là con gái thật của Tú Bà thì Tú Bà có để cảnh đó diễn ra không? Thúc Sinh biết rõ mười mươi như vậy lại hỏi Kiều "Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra?".
Tại sao Thúc Sinh lại phải giả vờ/ già đò/ giả bộ như vậy? Phải làm như vậy nhằm che giấu một sự thật: mình không phải là khách làng chơi, mình ngây thơ, tử tế, nghiêm túc, muốn lấy Kiều làm vợ (lẽ). Hỏi như vậy còn để Kiều phải nói rõ sự thật của đời mình: Không phải con gái Tú Bà mà do hoàn cảnh nên phải làm gái lầu xanh.
Khi biết rõ sự thật về Kiều, do bản chất giai tầng xã hội (có học, lại buôn bán nên nhiều mưu mẹo, tính toán thiệt hơn), Thúc Sinh đã không tìm cách chuộc ngay nàng Kiều mà phải lập mưu: mượn cớ đưa Kiều đi hóng mát ở Trúc Viện, giữ nàng ở đó rồi tung tin kiện Tú Bà mua con gái nhà lương thiện về làm đĩ, một mặt sai người điều đình để chuộc Kiều ra... Làm như vậy thì mất ít tiền hơn, Thúc sinh vừa lấy được Kiều, vừa có lợi về tiền của.
Còn Từ Hải thì sao? Những nét riêng của Từ Hải khác hẳn với Thúc Sinh. Ta hãy xem họ Từ đến với nàng Kiều. Sắc đẹp "nghiêng nước nghiêng thành" của nàng thì ai cũng rõ. Phải chăng khi đến với nàng Kiều, Thúc Sinh và Từ Hải đều bị hấp dẫn bởi sắc đẹp đó? Thúc Sinh thì: "Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi" (câu 1279).
Từ Hải thì "Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều" (câu 2175). Tiếng tăm của nàng Kiều ("mộ tiếng", "nghe tiếng") đã khiến hai người phải chú ý đến nhưng tiếng tăm đó nói về sắc đẹp hay về điều gì thì phải xem xét mới có thể kết luận được.
Với Thúc Sinh, những câu "Trướng tô giáp mặt hoa đào/ Vẻ nào chẳng mặn, nét nào chẳng ưa/ Hải đường mơn mởn cành tơ"; "Sinh càng một tỉnh mười mê/ Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân" đã nói rõ chàng Thúc mê đắm sắc đẹp của nàng Kiều. Còn Từ Hải thì có phải do hấp dẫn bởi sắc đẹp của nàng Kiều không? - Không phải! Tiếng tăm của nàng Kiều làm Từ Hải phải chú ý là sự khác biệt của nàng: "Bấy lâu nghe tiếng má đào/ Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?". Nó đặc biệt ở chỗ không chịu sự an bài của số phận mà vẫn tìm cách vươn lên, vẫn mong muốn đạt được những sự tốt đẹp hơn. Nó cũng tương đồng với bản chất anh hùng của Từ Hải: "Đội trời đạp đất ở đời".
Chính vì vậy, ngay từ đầu, khi đến với nàng Kiều, Từ Hải đã bộc lộ rõ sự chân thành, chàng nói với Kiều: "Tâm phúc tương cờ/ Phải người trăng gió vật vờ hay sao" (câu 2179-2180) nghĩa là lấy lòng thành đối với nhau chứ không phải là người chơi bời.
Khi nghe Kiều nói rõ việc "Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?" thì Từ Hải càng tỏ rõ sự trân trọng với nàng, chàng nhẹ nhàng bảo: "Lại đây xem lại cho gần/ Phỏng tin được một vài phần hay không?".
Là một người "Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài" mà không cậy sức mạnh của mình, bắt ép người khác phải theo ý mình, chàng để cho nàng Kiều tự mình thấy lòng tin ở mức nào. Phẩm chất này cũng thể hiện rõ khi hai bên ý hợp tâm đầu thì Từ Hải đã không hề tính toán thiệt hơn, chuộc ngay nàng Kiều ra khỏi lầu xanh ("Ngỏ lời nói với bằng nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn" câu 2207-2208).
Cảnh Kiều gặp Từ Hải. |
Lấy Kiều nhưng Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp, chàng quyết ra đi. Kiều nói: "Phận gái chữ tòng/ Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi". Ở người khác, do sĩ diện hoặc nêu những lý do vớ vẩn để ngăn nàng Kiều đi theo nhưng với bản chất thật thà, trọng sự thật, Từ Hải đã nói rõ tình cảnh không hay của mình là: "Bằng nay bốn bể không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu?/ Đành lòng chờ đó ít lâu/ Chầy chăng là một năm sau vội gì".
Đúng là phẩm chất đáng quý của người anh hùng! Khi đã có thế lực, Từ Hải tạo điều kiện để Thúy Kiều "báo ân báo oán". Xong việc, Kiều: "Tạ ân lạy trước Từ Công" và nói rõ ơn này: "Khắc xương ghi dạ xiết chi/ Dễ đem tim óc đến nghì trời mây". Với bản chất chân thành, không tính toán, Từ Hải khảng khái cho rằng: "Anh hùng tiếng đã gọi rằng/ Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha", còn trong gia đình thì "Huống chi việc ấy việc nhà/ Lọ là thâm tạ mới là tri ân".
Một nét riêng nữa của Từ Hải cũng cần phải nói đến, đó là lòng thương người, lòng thông cảm sâu sắc với nỗi xót xa đau khổ của nàng Kiều phải xa lìa cha mẹ. Chàng nói với nàng Kiều: "Xót nàng còn chút song thân/ Bấy nay kẻ Việt, người Tần cách xa/ Sao cho muôn dặm một nhà/ Cho người thấy mặt là ta cam lòng" (câu 2433-2436). Tấm lòng ấy (trừ Kim Trọng) phải chăng chỉ có ở Từ Hải mà không có ở những người đàn ông khác khi đến với nàng Kiều?
Qua phân tích ở trên, ta thấy rõ: Cùng là khách làng chơi đến với Kiều nhưng hai người được miêu tả rất khác biệt, rất đời, rất thực. Đó chính là tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du tiên sinh qua những phác họa về bản chất giai tầng xã hội của mỗi người thật rõ nét và sống động biết bao.