Nhân đọc tập truyện ngắn “Người đẹp ở bản Hoa” của Nguyễn Xuân Hải, NXB Hồng Đức, 2019

Nhà văn Nguyễn Xuân Hải với “Người đẹp ở bản Hoa”

Thứ Sáu, 24/04/2020, 07:44
Ở mảng truyện viết về miền núi, bút pháp chủ đạo của Nguyễn Xuân Hải là cảm hứng ngợi ca. Ông ngợi ca những người chiến sĩ biên phòng nơi biên cương tổ quốc, họ đều sinh ra, lớn lên ở các tỉnh đồng bằng lên đây cùng với đồng bào dân tộc bảo vệ biên cương và mang ánh sáng văn hóa đến với vùng cao...


“Người đẹp ở bản Hoa” là cuốn sách mới nhất của nhà văn Nguyễn Xuân Hải, NXB Hồng Đức, 2019, gồm 14 truyện ngắn. Trước khi về công tác ở báo Công an nhân dân, Nguyễn Xuân Hải đã từng có nhiều năm làm người chiến sĩ công an vũ trang (bộ đội biên phòng sau này), hoạt động ở một miền rừng núi biên giới Tây Bắc. Thiên nhiên và con người nơi đây đã ban tặng cho ông một vốn sống đầy đặn, phong phú. Để rồi thời gian càng lùi xa thì những kỷ niệm càng trở nên lấp lánh, ám ảnh, trôi chảy vào những trang văn của ông một cách tự nhiên, thao thiết.

Ở mảng truyện viết về miền núi, bút pháp chủ đạo của Nguyễn Xuân Hải là cảm hứng ngợi ca. Ông ngợi ca những người chiến sĩ biên phòng nơi biên cương tổ quốc, họ đều sinh ra, lớn lên ở các tỉnh đồng bằng lên đây cùng với đồng bào dân tộc bảo vệ biên cương và mang ánh sáng văn hóa đến với vùng cao.

Viết ngợi ca tưởng dễ mà khó, bởi nếu non tay, nếu hụt hẫng vốn sống và bản lĩnh nghệ thuật rất dễ gây cảm giác “ngờ ngợ” cho bạn đọc. Không cột được niềm tin của bạn đọc vào tác phẩm thì tác phẩm ấy không thể đứng được. Trong các truyện “Biên cương thăm thẳm”, “Người đẹp ở bản Hoa”, “Phận lá vàng”, cảm hứng ngợi ca của Nguyễn Xuân Hải lại lôi cuốn người đọc khá mạnh mẽ. Vì sao vậy?

Đại tá - nhà văn Nguyễn Xuân Hải.

Theo tôi, thứ nhất: nhà văn rất “thuộc” nhân vật. Những nhân vật chính trong truyện là những người lính biên phòng quê miền xuôi và những thiếu nữ dân tộc như Phin - dân tộc Thái, Mỵ - dân tộc Tày, Mùa - dân tộc La Hủ. Thứ hai, các nhân vật của ông tuy mỗi người một tính cách nhưng họ đều là những người tốt, tốt từ bản chất và tốt nhờ cái môi trường của những người lính áo xanh đã đào luyện cho họ một phẩm chất cao quý. Có những việc họ làm, với họ thì rất bình thường, nhưng bạn đọc thì nhận ra nó rất đẹp, rất đỗi thiêng liêng. Nó đi vào tác phẩm một cách rất tự nhiên, không một chút gượng ép, áp đặt.

Đọc tác phẩm mang cảm hứng chủ đạo ngợi ca mà giá trị nhân văn thấm đẫm trên từng câu chữ, cuốn hút từ dòng đầu đến dòng cuối. Nhờ những người lính ấy mà sự vấp ngã của Mỵ đã không làm em gục ngã, đã giúp Mỵ “nhận thức lại” rằng cuộc đời của em chưa phải đã bị bỏ đi, trái lại, sẽ còn rất hữu ích nếu em biết đứng lên đi tiếp bằng những nội lực tiềm ẩn trong chính con người em. Phải, vẻ đẹp của chính em đã đi vào tác phẩm nghệ thuật và nghệ thuật đã hàn gắn vết thương, chắp cánh cho em bay lên khỏi vũng lầy. Em trở thành hướng dẫn viên du lịch duyên dáng, tài năng.

Còn cô Mùa, người La Hủ, trong truyện “Phận lá vàng” thường phải oằn mình chống lại thiên tai, nai lưng với đất cát, núi đồi để kiếm miếng ăn đã vô cùng cực nhọc, nhưng cái nỗi khổ ghê gớm hơn lại là những phong tục lạc hậu trói buộc con người cô, làm cho cô không tự ý thức được mình là con người nữa. Thật may, những người lính biên phòng đóng quân trong cái đồn gần đấy đã phát hiện và hiểu được những nỗi khổ hạnh mà Mùa đang phải chịu đựng, họ đã giải thoát cho Mùa, giúp Mùa hiểu được quyền làm người của cô để cô được sống an lành, có tình yêu, hạnh phúc.

Nguyễn Xuân Hải rất am hiểu người dân tộc thiểu số. Ông mô tả người dân tộc từ dáng đi điệu đứng, cách hành xử, nói năng y như ông cũng là người miền núi chính hiệu vậy. Nhiều câu văn của ông mô tả lời ăn tiếng nói của người dân tộc khiến tôi thích thú: “…Tiếng khèn xui cái bụng của Mùa thích dần…”, “…Cả bản có chín nhà thì năm nhà bị ma nước lôi đi…”, “…Con Ly đã gần ba tuổi, cũng không phải ngậm vú một năm rồi…”.

Nếu như cần “bàn góp” với nhà văn một chút, ấy là có truyện, do “dư dật” vốn liếng mà có cảm giác tác giả hơi “tham”, có những tình tiết dư thừa làm “loãng” trang văn, cốt truyện lắt léo một cách không cần thiết cho dù vấn đề của tác phẩm rất hay, như “Bài thơ về cây măng trúc” là một thí dụ.

Mảng đề tài thứ hai trong tập sách là những truyện ngắn ôm chứa những vấn đề nóng bỏng trong cuộc sống đương đại hôm nay. Với con mắt của một người vừa viết văn vừa làm báo Công an nhân dân, Nguyễn Xuân Hải có cái nhìn soi vào những tầng sâu của những câu chuyện. Có chuyện mà dung lượng của nó có thể xây dựng thành một tiểu thuyết như “Những trang nhật ký” viết về hai chị em ruột Đa và Đại.

Đa đã tốt nghiệp đại học loại giỏi, xinh đẹp, đảm đang, nhưng do một tai họa của thời kinh tế thị trường, bố mẹ cô phải gánh nợ, rồi mang bệnh mà qua đời, ngôi nhà bị tịch thu, hai chị em cô bị đẩy ra đường. Đa và Đại trốn bọn đầu gấu chuyên đòi nợ bằng cách dạt lên thành phố, sống trong một túp lều ở cái ngõ tối tăm, bẩn thỉu, nhan nhản bọn đạo chích, nghiện hút.

Tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Xuân Hải.

Liền kề với cái ngõ ấy là cái xóm liều, nơi hội tụ đủ mọi hạng người lưu manh du thủ du thực. Người công an khu vực tiền nhiệm là một kẻ thoái hóa, khi có sự cố thì lại đứng về phía bọn bất lương để ăn lộc của chúng. Chị em Đa – Đại chỉ có hai bàn tay trắng trở thành những “miếng mồi ngon” cho bọn này. Đã có đêm Đa bị chúng bắt đưa ra bãi cỏ hãm hiếp lấy đi đời thiếu nữ trinh trắng nhưng cô không dám tố cáo.

Chẳng hiểu rồi cuộc đời hai chị em sẽ bị xô dạt đến đâu nếu như người lính công an khu vực tiêu cực kia không nhận giấy nghỉ hưu? Thay thế ông ta là người chiến sĩ công an trẻ, còn có những ngờ nghệch, nhưng bằng tâm hồn trong sáng, thẳng ngay, thương người và một trái tim quả cảm mà anh đã giúp chị em Đa tránh được những hiểm họa.

Các truyện của Nguyễn Xuân Hải đều hấp dẫn bạn đọc bởi, như tôi đã nói ở trên, ông rất am hiểu những điều ông viết; ông viết bằng lối văn biến ảo, khi hiền hòa, khi dữ dội và lắm bất ngờ. Những khi mạch truyện căng thẳng như sợi dây sắp “đứt” đến nơi thì ông lại dùng lối văn hài hước, dí dỏm để dẫn dẵt lôi cuốn bạn đọc khiến họ tiếp thu những điều ông định nói không bị nặng nề mà vẫn không giảm hiệu quả nghệ thuật.

Các truyện “Câu hát ngày xưa” và “Người trong tranh” đều nói về mối quan hệ mang tính hệ quả giữa Tác giả - Nhân vật ngoài đời - Tác phẩm. Truyện mô tả số phận của một cô bé nhà quê Lê Thi Lập, do người cha rượu chè, lười lao động, lại hay đánh đập vợ con, gia đình bị rơi vào cảnh bần cùng mà cô phải bỏ nhà ra đi từ lúc tuổi thiếu niên. Mọi người nghĩ cô đã chết ở một xó xỉnh nào đó. Nhưng bằng những phẩm chất quý giá tiềm ẩn, cô đã tạo được một chỗ đứng cho mình trong nghệ thuật.

Sự trở về của Lê Thị Lập đã làm đảo lộn bao nhiêu lối nghĩ cổ hủ, mòn cũ, trì độn ở cái làng quê ngàn năm cát cứ này. Còn truyện “Người trong tranh” lại đề cập đến một khía cạnh khác: để làm ra một tác phẩm nghệ thuật có giá trị trường tồn với thời gian, có khi nhân vật nguyên mẫu và tác giả phải trả giá bằng cả một kiếp người.

Cái ý tưởng như thế này dường như tôi cũng đã đọc thấp thoáng ở đâu đó. Nhưng nhà văn Nguyễn Xuân Hải đã cho thấy bút pháp sáng tạo của riêng ông: ý tưởng chỉ là cái có sau, sự trải nghiệm từ cuộc sống của ông mới làm nên “máu thịt” của tác phẩm, vì thế mà “hơi thở” truyện của ông trở nên rất mới mẻ, tự nhiên, gây xúc động cho người đọc.

Các truyện “Ngọn lửa chiếu manh” và “Của để dành ở Amsterdam”, “Đất đình làng” là ba truyện hay nhất tập. Nhưng tôi muốn nhường quyền cho bạn đọc tự tìm sách để thưởng thức. Nhà văn Nguyễn Xuân Hải lâu nay được bạn đọc biết đến nhiều trong vai trò là một tác giả kịch bản phim truyền hình và thơ, còn tôi thì xin nói rằng, mảng truyện ngắn của ông cũng rất đáng để cho bạn đọc đón nhận và thưởng thức.

Lê Hoài Nam
.
.
.