Từ “Phú Riềng Đỏ” đến khát vọng hội nhập - 96 năm bản lĩnh ngành Cao su Việt Nam

Thứ Hai, 20/10/2025, 17:44

Từ những người phu đồn điền trong “địa ngục trần gian” đến đội ngũ công nhân trí thức, sáng tạo hôm nay - 96 năm qua, phong trào công nhân và ngành Cao su Việt Nam đã viết nên bản trường ca kiên cường, trung dũng và đầy tự hào.

Bước vào kỷ nguyên hội nhập, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) tiếp nối truyền thống “Phú Riềng Đỏ” anh hùng, vươn mình mạnh mẽ, khẳng định vai trò doanh nghiệp chủ lực quốc gia, tiên phong trong phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội và khát vọng dựng xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Từ “Phú Riềng Đỏ” đến khát vọng hội nhập - 96 năm bản lĩnh ngành Cao su Việt Nam -0
Phu cao su làm việc dưới sự giám sát của người Pháp.

Sự ra đời của đồn điền cao su thời Pháp và những bước đầu đấu tranh

Cuối thế kỷ XIX, sau khi hoàn tất công cuộc xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa với mục tiêu biến Đông Dương thành “vườn nguyên liệu của nước Pháp”. Trong số những loại cây trồng được đưa vào khai thác, cao su nhanh chóng trở thành “vàng trắng” bởi vai trò quan trọng trong công nghiệp và quốc phòng.

Từ năm 1897, người Pháp bắt đầu trồng thử nghiệm cây cao su tại Thảo Cầm Viên Sài Gòn, rồi lập hai trung tâm nghiên cứu tại Ông Yếm (Thủ Dầu Một, do Dược sĩ Raul phụ trách) và Suối Dầu (Nha Trang, do Bác sĩ Yersin chỉ huy). Khi việc trồng thử nghiệm thành công, hàng loạt công ty tư bản Pháp như Michelin, SIPH, CEXO, Courtenay… ồ ạt đầu tư mở đồn điền ở Nam Kỳ. Đến năm 1929, diện tích cao su ở ba tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa đã đạt 84.000 ha, vốn đầu tư lên đến 700 triệu franc - gấp hàng chục lần so với giai đoạn 1920. Cùng với người Pháp, một số nhà tư sản Hoa kiều và địa chủ Việt Nam như Lê Phát Vĩnh, Lê Phát Tân, Nguyễn Hữu Hào, Trần Văn Tư cũng đầu tư lập đồn điền.

Để có đủ nhân công, thực dân Pháp đẩy mạnh chiêu mộ phu từ Bắc và Trung kỳ. Những người dân nghèo bị lừa phỉnh bằng hứa hẹn “làm công có lương”, song thực chất bị cưỡng ép vào làm việc khổ sai trong các đồn điền. Họ phải ký “contrat” - bản giao kèo lao động, và từ đó trở thành phu đồn điền cao su, thường được gọi là “cu li”. Họ bị cai, xu, sếp cai trị tàn bạo, bị đánh đập, phạt roi, ăn uống kham khổ, sống trong lều trại ẩm thấp, phải làm việc 13-14 tiếng mỗi ngày giữa rừng thiêng nước độc. Căn bệnh sốt rét, sâu quảng, kiết lỵ hoành hành; nhiều người chết ngay trên lô cạo, không được chôn cất đàng hoàng. Thống kê giai đoạn 1930-1935 cho thấy 55% công nhân cao su bị sốt rét và bệnh sâu quảng. Các đồn điền cao su được ví như “địa ngục trần gian giữa rừng xanh”.

Từ “Phú Riềng Đỏ” đến khát vọng hội nhập - 96 năm bản lĩnh ngành Cao su Việt Nam -0
Công nhân và nhân dân cao su Dầu Tiếng phục vụ cho cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968.

Trong khổ đau cùng cực, những người phu cao su đã bắt đầu nhận ra sức mạnh đoàn kết. Các cuộc phản kháng, bãi công tự phát diễn ra ở nhiều đồn điền như Dầu Giây, Bình Lộc, Bến Củi, Phú Riềng, Lộc Ninh... Dù ban đầu còn manh mún và bị đàn áp, nhưng đó là những đốm lửa đầu tiên thắp lên tinh thần đấu tranh của giai cấp công nhân cao su Việt Nam. Từ những năm 1927-1928, phong trào công nhân cao su đã có sự chuyển biến mạnh mẽ khi chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá rộng rãi. Các tổ chức cách mạng đầu tiên như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời trong một số đồn điền lớn.

Từ đau thương đến đấu tranh – Mốc son Phú Riềng Đỏ 28/10/1929

Đêm 28/10/1929, giữa rừng cao su bạt ngàn Phú Riềng (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng tại đồn điền Phú Riềng được thành lập. Đây là chi bộ Đảng đầu tiên trong ngành cao su Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại đưa phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sau đó, phong trào công nhân cao su lan rộng với nhiều cuộc bãi công, biểu tình lớn: 5.000 công nhân Phú Riềng đấu tranh, 1.300 công nhân Michelin (10/2/1930), phong trào ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh... Hàng trăm đảng viên, đoàn viên bị bắt, bị tù đày, song ý chí cách mạng không hề suy chuyển. Chính từ những “Phú Riềng đỏ”, phong trào công nhân cao su đã góp phần hun đúc truyền thống “Trung thành - Dũng cảm - Kiên cường - Đoàn kết - Lao động sáng tạo”, trở thành niềm tự hào của giai cấp công nhân Việt Nam.

Từ “Phú Riềng Đỏ” đến khát vọng hội nhập - 96 năm bản lĩnh ngành Cao su Việt Nam -0
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc tìm hiểu sản phẩm của Tập đoàn tại Đại hội Đảng bộ VRG lần thứ X, nhiệm kỳ 2025 - 2030.

Ngày 28/10 hàng năm được chọn là Ngày truyền thống ngành Cao su Việt Nam - mốc son khởi đầu của 96 năm hào hùng.

Công nhân cao su trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ

Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, các đồn điền cao su trở thành căn cứ kháng chiến. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược, công nhân cao su đã tổ chức “Mặt trận cao su chiến”, phát động phong trào đốt mủ, phá cây, chống chiêu mộ lính, cắt đường vận chuyển vật tư của địch. Họ vừa đấu tranh đòi quyền sống, vừa góp sức nuôi giấu cán bộ cách mạng. Năm 1949, Đại hội Liên đoàn cao su Nam Bộ lần thứ nhất được tổ chức tại An Điền (Bến Cát, Thủ Dầu Một) - đánh dấu sự trưởng thành của phong trào công nhân cao su. Hàng nghìn thanh niên từ các đồn điền đã gia nhập Vệ quốc đoàn, trở thành lực lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Trong kháng chiến chống Mỹ, công nhân cao su tiếp tục phát huy truyền thống kiên trung. Dưới mưa bom napalm, nhiều người vẫn bám vườn cây, vừa sản xuất, vừa nuôi giấu cán bộ, góp phần làm nên các chiến công ở Dầu Tiếng, Phước Long, Lộc Ninh... Đến tháng 4/1975, khi đất nước hoàn toàn giải phóng, toàn bộ các đồn điền cao su được tiếp quản, đánh dấu chặng đường 46 năm công nhân cao su đồng hành cùng dân tộc trong chiến đấu và hy sinh.

Từ “Phú Riềng Đỏ” đến khát vọng hội nhập - 96 năm bản lĩnh ngành Cao su Việt Nam -0
VRG ứng dụng chuyển đổi số vào sản xuất nông nghiệp.

Sau ngày thống nhất, ngành cao su Việt Nam chỉ còn 42.000 ha vườn cây, phần lớn già cỗi, hư hại nặng. Công nhân trở lại đồn điền, vừa rà phá bom mìn, vừa dựng lại vườn cây. Đến năm 1976, diện tích khai thác đạt 25.000 ha, sản lượng 36.590 tấn mủ các loại. Năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 52-CP, thành lập Tổng công ty Cao su trực thuộc Bộ Nông nghiệp, đảm nhiệm phục hồi và phát triển ngành. Nhờ tinh thần “Gà mẹ đẻ gà con”, các công ty cao su miền Đông Nam Bộ đã hỗ trợ mở rộng trồng mới ở Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung. Đến năm 1980, diện tích đạt 77.000 ha, sản lượng hơn 198.000 tấn, bắt đầu xuất khẩu sang Liên Xô và Đông Âu.

Giai đoạn 1981-1985, ngành cao su được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển thâm canh, ứng dụng khoa học kỹ thuật, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề. Đời sống người lao động được cải thiện, các khu nhà công nhân, trường học, bệnh xá được xây dựng, góp phần hình thành những vùng kinh tế mới, thay đổi bộ mặt nông thôn ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.

Ngành cao su đồng hành cùng Đổi mới - góp phần phát triển đất nước

Thực hiện đường lối Đổi mới (1986), ngành cao su chuyển sang cơ chế tự chủ sản xuất kinh doanh. Nghị định 32-HĐBT (1989) thành lập Tổng Công ty Cao su Việt Nam, đến năm 1995 được củng cố lại theo Quyết định 525-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ngành cao su trở thành một trong những trụ cột xuất khẩu của đất nước.

Đến năm 1995, diện tích vườn cây đạt trên 220.000 ha, sản lượng 118.000 tấn/năm, năng suất bình quân 847 kg/ha. Hàng chục thị trấn, thị tứ mọc lên từ các nông trường cao su; hàng vạn hộ công nhân ổn định cuộc sống, thoát nghèo bền vững.
Ngành cao su không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mà còn đóng góp to lớn cho xã hội – xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục, y tế, tạo việc làm, góp phần bảo vệ an ninh chính trị ở vùng sâu, vùng xa.

Bước chuyển mình trong thời kỳ hội nhập

Bước sang năm 2006, trong bối cảnh thế giới chuyển mình mạnh mẽ với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác và phát triển là dòng chảy chủ đạo, Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Ngày 30/10/2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 248/2006/QĐ-TTg thành lập Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) và Quyết định số 249/2006/QĐ-TTg về Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của ngành.

Ngay sau khi thành lập, VRG vừa tổ chức sắp xếp lại bộ máy ngành, vừa tập trung đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh theo hướng đa dạng hóa sản phẩm, ngành nghề và hình thức sở hữu. Đến năm 2007, diện tích cao su đạt 230.000 ha, năng suất tăng từ 1,51 tấn/ha (2003) lên 1,80 tấn/ha, doanh thu tăng 199%, lợi nhuận tăng 197%, nộp ngân sách tăng 178%. Những con số ấn tượng này đã khẳng định bản lĩnh, năng lực quản trị và vị thế mới của VRG trong nền kinh tế hội nhập.

Từ “Phú Riềng Đỏ” đến khát vọng hội nhập - 96 năm bản lĩnh ngành Cao su Việt Nam -0
Một cánh rừng cao su bạt ngàn của VRG.

Thực hiện chủ trương mở rộng vùng trồng, từ năm 2006, cây cao su đã vươn lên những vùng đồi núi phía Bắc – nơi trước đây được coi là “vùng trắng” về cây công nghiệp dài ngày. VRG thành lập 9 công ty cổ phần cao su tại các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Mường Nhé, Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai, quản lý hơn 28.700 ha cao su, trong đó 21.491 ha đang khai thác, 7.191 ha kiến thiết cơ bản.

Nhờ sự quan tâm của lãnh đạo Tập đoàn và sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, khu vực miền núi phía Bắc đã trở thành vùng cao su đặc thù, tạo việc làm ổn định cho hơn 5.000 lao động, trong đó 90-95% là đồng bào dân tộc thiểu số. Từ năm 2019 đến 2023, diện tích khai thác tăng gần gấp đôi, sản lượng đạt hơn 20.000 tấn/năm. Hai nhà máy chế biến tại Sơn La, Lai Châu đã hoạt động hiệu quả; nhà máy tại Điện Biên dự kiến vận hành năm 2024.

Sự hiện diện của VRG đã làm thay đổi diện mạo kinh tế – xã hội vùng cao, hình thành đội ngũ công nhân cao su thế hệ mới, góp phần bảo đảm an sinh xã hội và quốc phòng an ninh vùng biên giới.

Vươn ra khu vực - Dấu ấn Việt Nam trên đất bạn

Song song với mở rộng trong nước, VRG còn mở hướng đầu tư ra nước ngoài tại hai quốc gia láng giềng Lào và Campuchia.

Tại Lào, VRG có 6 công ty, 7 dự án tại 5 tỉnh biên giới, với diện tích 25.495 ha, tổng vốn đầu tư 146,6 triệu USD. Sau hơn 15 năm triển khai, các dự án duy trì năng suất ổn định, tạo việc làm cho hơn 5.300 lao động, góp phần phát triển hạ tầng, trường học, bệnh viện, nâng cao đời sống nhân dân địa phương, tô đậm tình hữu nghị Việt - Lào.

Tại Campuchia, Tập đoàn có 16 công ty trồng cao su trên 87.871 ha thuộc 7 tỉnh, với 9 nhà máy chế biến công suất 118.900 tấn/năm. Sản phẩm đa dạng từ SVR 10, 20, RSS đến SVR 3L, SVR 5. Campuchia hiện là khu vực có sản lượng lớn thứ hai của Tập đoàn, chỉ sau Đông Nam Bộ. Trong chuyến thăm Việt Nam ngày 12/12/2023, Thủ tướng Campuchia Hun Manet đã đánh giá cao hiệu quả đầu tư của VRG, khẳng định Tập đoàn là biểu tượng hợp tác kinh tế và hữu nghị bền chặt giữa hai dân tộc.

Thực hiện chủ trương đổi mới, ngày 22/5/2018, VRG tổ chức Đại hội cổ đông lần thứ nhất, chính thức chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần với vốn điều lệ 40.000 tỷ đồng. Đây là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của Tập đoàn, mở ra thời kỳ hoạt động theo cơ chế thị trường hiện đại, minh bạch, hiệu quả hơn.

Ngày 15/01/2018, VRG được chuyển giao từ Bộ Nông nghiệp & PTNT sang Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; đến 28/02/2025, theo Nghị quyết 38/NQ-CP, Bộ Tài chính chính thức trở thành cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại Tập đoàn. Cùng thời điểm, theo Quyết định 243-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Đảng bộ Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam trực thuộc Đảng bộ Chính phủ – khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của VRG trong nền kinh tế quốc gia.

Hệ sinh thái quy mô lớn và khát vọng phát triển bền vững

Đến nay, VRG quản lý 115 công ty (99 công ty con, 16 công ty liên kết), trong đó 63 công ty trồng cao su với tổng diện tích 397.882 ha (283.430 ha trong nước, 87.772 ha tại Campuchia và 26.680 ha tại Lào). Tập đoàn đang tạo việc làm ổn định cho hơn 84.800 người lao động, trong đó gần 30% là lao động tại nước ngoài.

Bước vào kỷ nguyên mới, VRG xác định khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững là 5 trụ cột chiến lược.
Tập đoàn đặt mục tiêu đến năm 2030: doanh thu vượt 200.000 tỷ đồng, tăng trưởng bình quân hai con số mỗi năm, thu nhập người lao động tăng ít nhất 30% so với năm 2025. Cùng với phát triển kinh tế, VRG tiếp tục chú trọng an sinh xã hội, quốc phòng – an ninh, đặc biệt ở các vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trải qua 96 năm xây dựng và trưởng thành, ngành cao su Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng (2012); Huân chương Hồ Chí Minh (1996); Huân chương Lao động hạng Nhất (2014); Cùng hàng chục danh hiệu Anh hùng Lao động, Anh hùng Lực lượng vũ trang, hàng trăm Huân chương Lao động, hàng ngàn Bà mẹ Việt Nam Anh hùng là nữ công nhân cao su.

Phát huy truyền thống “Phú Riềng Đỏ” anh hùng, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam hôm nay tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu của doanh nghiệp nhà nước, tiên phong trong phát triển kinh tế gắn với trách nhiệm xã hội, với tinh thần:

“Tập trung phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”, hướng tới mục tiêu xây dựng VRG trở thành Tập đoàn kinh tế hàng đầu khu vực, góp phần dựng xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

VRG hiện tập trung vào 6 lĩnh vực kinh doanh trụ cột:Trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến và kinh doanh mủ cao su; Khai thác, chế biến và sản xuất các sản phẩm gỗ cao su (18 nhà máy, công suất 1,2 triệu m³/năm, chiếm 50% nhu cầu MDF trong nước); Sản xuất sản phẩm công nghiệp cao su (lốp xe VRG, nệm, gối, bóng thể thao, găng tay, dây chuyền băng tải…); Phát triển hạ tầng khu công nghiệp: 14 khu đang hoạt động, 4 dự án mới chuẩn bị triển khai, nâng tổng quy mô lên 5.800 ha; Nông nghiệp công nghệ cao: 11 đơn vị, diện tích 1.687 ha chuyển đổi trồng trọt theo mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến; Năng lượng tái tạo: 12 công ty triển khai điện mặt trời áp mái (công suất 13.883 kWp, giảm phát thải 7.400 tấn CO₂), cùng 3 dự án lớn trong Quy hoạch điện VIII.

PV
.
.
.